Overblog
Suivre ce blog Administration + Créer mon blog
12 juin 2010 6 12 /06 /juin /2010 09:32

Doanh khí thiên 

Hoàng Đế nói: “Con đường của doanh khí qúy nhất là ở chỗ nạp cốc khí nhập vào Vị, sau đó mới truyền lên cho Phế, tràn ngập ở trong và bố tán ra ngoài, phần tinh chuyên vận hành trong kinh toại, nó doanh hành 1 cách thường không bao giờ ngừng lại, chung rồi lại thỉ, đây chính là kỷ của Thiên Địa[1].

 

 

Cho nên, khí bắt đầu xuất ra từ Thái âm rồi chú rót vào kinh thủ Dương minh, vận hành lên trên rót vào kinh túc Dương minh, xuống dưới vận hành cho đến mu bàn chân rồi rót vào trong khoảng ngón cái để hợp với kinh Thái âm, đi lên trên áp vào Tỳ, từ Tỳ rót vào giữa Tâm, lại tuần hành theo kinh Thủ Thiếu âm, xuất ra khỏi nách, xuống dưới theo cẳng tay để rót vào ngón tay út, hợp với kinh Thủ Thái dương, lại vận hành lên trên, cưỡi lên nách, xuất ra ở xương má (dưới mắt) rót vào khoé mắt trong, lên đỉnh đầu, xuống đến cổ gáy để hợp với kinh túc Thái dương, tuần hành theo cột sống xuống dưới xương cùng, rồi lại đi xuống để rót vào đầu ngón út, tuần hành theo giữa lòng bàn chân để rót vào kinh túc Thiếu âm, tuần hành lên trên rót vào Thận, từ Thận lại rót vào ngoài Tâm để rồi tán ra ở giữa lồng ngực, tuần hành theo mạch của kinh Tâm chủ, xuất ra dưới nách, đi xuống cẳng tay, xuất ra ở giữa 2 đường gân, nhập vào lòng bàn tay, xuất ra ở đầu ngón giữa, trở lại rót vào đầu ngón áp út phía ngón út hợp với kinh Thủ Thiếu dương, đi lên trên rót vào Chiên Trung, tán ra ở Tam tiêu, từ Tam tiêu rót vào Đởm, xuất ra ở hông sườn, rót vào kinh túc Thiếu dương, lại đi xuống mu bàn chân, rồi lại từ mu bàn chân rót vào trong chỗ khoảng ngón chân cái để hợp với kinh Túc Quyết âm, vận hành lên trên đến Can, từ Can lên trên rót vào Phế, lên trên đến cổ họng, nhập vào khiếu  trong mũi (kháng tảng) dứt ở khiếu cổ họng (súc môn)[2].

 

 

Chi biệt của nó lên trên trán, tuần hành ở đỉnh đầu, xuống dưới cổ gáy, tuần hành theo cột sống nhập vào xương cùng, đó là nơi của Đốc mạch để lạc với Âm khí (bộ sinh dục), lên trên đi qua giữa chòm lông mu, nhập vào giữa rốn, lên trên tuần hành theo bên trong bụng, nhập vào Khuyết bồn, xuống dưới rót vào giữa Phế, rồi lại xuất ra ở kinh Thái âm[3]. Đây chính là con đường vận hành của doanh khí, tạo thành lẽ thường của sự nghịch thuận vậy[4].

 

 

 

Doanh vệ sinh hội thiên
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Con người thọ khí từ đâu ? Âm Dương hội nhau ở đâu ? Khí gì gọi là Doanh ? Khí gì gọi là Vệ ? Doanh khí sinh ra từ đâu ? Vệ khí hội nhau ở đâu ? Khí của người già và người trai tráng không đồng nhau, Âm Dương ở những chỗ khác nhau, Ta mong được nghe về chỗ hội của chúng”[1].

 

 

Kỳ Bá đáp : “Con người thọ khí ở cốc khí, cốc khí nhập vào Vị để rồi truyền lên đến Phế, ngũ tạng lục phủ đều nhờ vậy mà thọ được khí ấy[2]. Phần thanh của khí ấy thành doanh, phần trọc của nó thành vệ[2]. Doanh ở trong mạch, vệ ở ngoài mạch, doanh hành thành những vòng không ngừng nghỉ, vận hành đủ 50 chu rồi trở lại họp đại hội với nhau[3]. Âm dương cùng quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối[4]. Vệ khí vận hành ở Âm 25 độ, vận hành ở Dương 25 độ, phân làm ngày và đêm, cho nên khi khí vận hành đến Dương phận thì thức, vận hành đến Âm thì ngủ[5].

Cho nên mới nói: lúc mặt trời giữa trưa là lúc Dương nở rộng ra gọi là trùng Dương, lúc nửa đêm là lúc Âm nở rộng ra, gọi là trùng âm[6]. Cho nên Thái âm chủ bên trong, Thái dương chủ bên ngoài, mỗi bên vận hành 25 độ, phân làm ngày và đêm[7].

Giữa đêm là lúc âm nở rộng rất, sau giữa đêm là lúc Âm bị suy, sáng sớm (bình đán) là lúc Âm tận và cũng là lúc Dương thọ (nhận lấy) khí[8].

Giữa trưa là lúc Dương nở rộng ra, lúc mặt trời về hướng tây là lúc Dương bị suy, mặt trời lặn là lúc Dương tận và cũng là lúc mà Âm nhận lấy khí[9].

Lúc giữa đêm (khí) họp đại hội, lúc đó vạn dân đều nằm (ngủ) gọi là lúc hợp âm[10]. Lúc sáng mai Âm tận và Dương nhận lấy khí[11]. Cứ như thế không bao giờ ngừng, cùng đồng với (cương) kỷ của Thiên Địa vậy[12].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Người già thì ban đêm không nhắm mắt (để ngủ), khí gì đã khiến nên như thế ? Những người thiếu niên, tráng niên thì ban ngày không nhắm mắt (để ngủ), khí gì đã khiến nên như thế ?”[13].

Kỳ Bá đáp : “Khí huyết của người tráng thịnh, cơ nhục của họ hoạt, đường khí đạo thông, sự vận hành của khí doanh vệ chưa mất đi lẽ thường của nó, cho nên ban ngày khí được sảng khoái và ban đêm thì mắt nhắm lại được[14]. Người lão thì khí huyết suy, cơ nhục của họ bị khô, đường khí đạo không còn trơn tru, khí của ngũ tạng đánh nhau, doanh khí của họ bị suy thiếu còn vệ khí thì cũng đánh nhau bên trong, cho nên khí của họ ban ngày không sảng khoái còn ban đêm thì mắt không nhắm lại (để ngủ) được”[15].

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe con đường vận hành của khí doanh vệ, nó từ con đường nào đến ?”[16].

Kỳ Bá đáp : “Doanh khí xuất ra từ trung tiêu, vệ khí xuất ra từ hạ tiêu”[17].

Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe chỗ xuất ra của Tam tiêu”[18].

Kỳ Bá đáp : “Thượng tiêu xuất ra ở Thượng khẩu của Vị, cùng đi dọc theo yết để đi lên, xuyên qua hoành cách để bố tán ở giữa ngực, đi qua nách, tuần hành theo vùng của kinh để đi, quay trở lại đến kinh Dương minh, lên trên đến lưỡi, xuống đến kinh túc Dương minh, thường cùng doanh khí đồng hành ở 25 độ dương, ở 25 độ âm, gọi là 1 chu, cho nên, sau 50 độ, chúng trở lại họp đại hội ở kinh thủ thái âm”[19].

Hoàng Đế hỏi: “Có người ăn hoặc uống những thức nóng, vừa xuống đến Vị, khí hãy còn chưa định thì mồ hôi đã ra, hoặc ra ở mặt , hoặc ra ở lưng, hoặc ra ở phân nửa thân người, nó không đi theo con đường của vệ khí để đi ra, tại sao thế ?”[20].

Kỳ Bá đáp : “Đó là vì (người này) bên ngoài bị thương bởi phong, bên trong làm cho tấu lý khai, lông bị chưng, tấu lý bị tiết (mồ hôi), vệ khí theo đó mà chạy ra, cho nên nó không đi theo con đường của mình[21]. Khí này rất hung hãn, nhanh nhẹn, khi thấy có chỗ khai thì chạy theo ra, do đó mà nó không còn đi đúng theo con đường của mình nữa, vì thế nên mới gọi đây là lậu tiết”[22].

 

 

Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe chỗ xuất ra của Trung tiêu”[23].

Kỳ Bá đáp : “Trung tiêu cũng cùng đi từ  vùng Trung hoãn của Vị, xuất ra ở dưới Thượng tiêu[24]. Đây là nơi thọ nhận cốc khí, nó thải ra chất cặn bã, chưng cất tân dịch, hóa cái tinh vi, lên trên rót vào Phế mạch để rồi hóa thành huyết nhằm phục vụ cho sự sống thân thể, thật không có gì qúy hơn nơi đây[25]. Cho nên chỉ có nó là có thể vận hành trong kinh toại, mệnh danh là doanh khí”[26].

Hoàng Đế hỏi: “Ôi ! Huyết và khí , tuy tên khác nhau, nhưng cùng loại với nhau, nói thế có nghĩa là gì ?”[26].

Kỳ Bá đáp : “Doanh vệ là tinh khí, Huyết là thần khí, cho nên huyết và khí tuy tên gọi khác nhau, nhưng cùng loại nhau[27]. Cho nên, nếu đoạt huyết thì không nên đoạt hoạt, nếu đoạt hoạt thì không nên đoạt huyết[28]. Cho nên khi con người bị (đoạt) cả hai thì chết, nếu không bị đoạt cả hai (còn có hy vọng) sống”[29].

 

 

Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về nơi xuất ra của hạ tiêu” [30].

Kỳ Bá đáp : “Hạ tiêu, sau khi biệt hồi trường, rót vào bàng quang bằng cách thấm dần vào, cho nên thủy cốc thường cùng ở trong Vị, khi thành chất bã thì đều xuống ở Đại trường và thành Hạ tiêu, nó thấm dần xuống, phân biệt thanh trọc, tuần hành theo Hạ tiêu để thấm vào Bàng quang”[31] 

Hoàng Đế hỏi: “Con người khi uống rượu vào, rượu cũng nhập vào Vị, cốc của nó chưa kịp nát ra thì tiểu tiện đã riêng chảy xuống dưới rồi, tại sao thế ?”[32]. Kỳ Bá đáp: “Rượu là chất dịch của thực cốc, khí của nó hung hãn mà nhanh nhẹn, cho nên mặc dù nó vào sau thủy cốc mà  nó lại thành chất dịch để ra trước thủy cốc”[33].

Partager cet article
Repost0
11 juin 2010 5 11 /06 /juin /2010 08:03

 

Vệ khí thiên
Hoàng Đế hỏi: "Ngũ tạng là nơi tàng giữ tinh, thần, hồn, phách[1], Lục phủ là nơi thọ nhận thủy cốc để hóa, để thành thức ăn[2]. Khí của nó bên trong dưỡng ngũ tạng, bên ngoài liên lạc với các chi và các tiết[3]. Khí nào phù mà không vận hành theo các kinh thuộc về vệ khí[4], khí tinh thì vận hành trong các kinh thuộc về doanh khí[5]. Thế là Âm Dương tùy vào nhau, trong và ngoài cùng quán xuyến nhau như chiếc vòng ngọc không có đầu mối, như dòng nước trôi chảy qua nhiều bến bờ nhưng rất êm xuôi, không làm gì cho cũng được[6]. Tuy nhiên sự phân biệt Âm Dương, tất cả đều phải theo tiêu bản, hư thực nơi nó tách rời nhau[7]. Nếu ta biết phân biệt 12 kinh của Âm Dương, ta sẽ biết được sinh ra nơi đâu[8]; Nếu ta có thể nắm được sự biểu hiện hư thực tại nơi nào, ta sẽ biết được bệnh xảy ra ở trên cao hay dưới thấp[9]; Nếu ta biết được những con đường khí nhai của lục phủ, ta có thể giải được những kết tụ, biết được lẽ tương hợp và kế tiếp nhau nơi cánh cửa của sự sống[10]; Nếu ta biết được sự cứng mềm của hư thực, ta sẽ biết được phải bổ tả nơi nào[11]; Nếu ta biết được tiêu bản của lục kinh, ta sẽ không còn bị mê hoặc bởi người trong thiên hạ”[12].

 

 

 

Kỳ Bá đáp : "Ôi ! To rộng thay lời luận bàn của bậc Thánh đế, Thần xin nói cho hết ý của mình[13]. Bản của kinh túc Thái dương nằm ở trên gót chân 5 thốn, tiêu của nó nằm ở vùng 2 lạc thuộc mệnh môn, mệnh môn đây là nơi đôi mắt[14]. Bản của kinh túc Thiếu dương nằm trong khoảng huyệt Khiếu Âm, tiêu của nó nằm ở trước huyệt Song Long, huyệt Song Long ở vùng tai[15]. Bản của kinh túc Thiếu âm nằm ở phía dưới mắt cá trong lên trên 3 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du và ở phía dưới lưỡi nơi có 2 mạch[16]. Bản của kinh túc Quyết âm nằm ở nơi huyệt Hành Gian lên trên 5 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du[17]. Bản của kinh túc Dương minh nằm ở huyệt Lệ Đoài, tiêu của nó nằm ở huyệt Nhân Nghênh, tức bên dưới má cạnh vùng kết hầu[18]. Bản của kinh túc Thái âm nằm ở trước huyệt Trung Phong lên trên 4 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du và cuống lưỡi[19]. Bản của kinh thủ Thái dương nằm ở phía sau mắt cá ngoài của tay, tiêu của nó nằm ở phía trên mệnh môn (mắt) 1 thốn[20]. Bản của kinh thủ Thiếu dương nằm ở trong khoảng của ngón út và ngón áp út lên trên 2 thốn, tiêu của nó nằm ở bên ngoài của góc trên phía sau tai, nơi phía mắt ngoài[21]. Bản của kinh thủ Dương minh nằm ở xương khủy tay, lên đến vùng biệt Dương, tiêu ở tại dưới góc trán, kẹp giữa 2 tai[22]. Bản của kinh thủ Thái âm nằm ở giữa huyệt Thốn khẩu, tiêu ở tại động mạch trong nách[23]. Bản của kinh thủ Thiếu âm nằm ở đầu xương nhọn cổ tay, tiêu ở tại huyệt bối du[24]. Bản của kinh thủ Tâm chủ nằm ở trong khoảng giữa 2 đường gân phía sau bàn tay 2 thốn, tiêu ở tại dưới nách xuống 3 thốn[25]. Phàm tất cả được biểu hiện của những kinh trên, nếu phía dưới bị hư thì bị chứng choáng váng, phía trên bị thịnh thì bị nhiệt mà đau[26]. Nếu bị thực (thạch) (có thể dùng phép tả) để giải bớt cái kết ngưng được bệnh, nếu bị hư thì có thể dùng phép bổ để dẫn đạo cho chân khí phấn chấn (không còn suy nữa)[27]. Thần xin nói thêm về khí “nhai”, khí ở đầu có “nhai”, khí ở cẳng chân có “nhai”, cho nên khí ở đầu bị thực hay hư nên trị dứt ở não[28], nếu khí ở ngực bị thực hay hư nên trị dứt ở vùng bối du và các vùng động mạch nằm 2 bên rốn[29], nếu khí ở cẳng chân bị thực hay hư nên trị dứt ở huyệt Khí Nhai và huyệt Thừa Sơn và vùng trên dưới mắt cá[30]. Khi thủ các huyệt này, nên dùng hào châm, trước hết nên án vào nơi huyệt rất lâu, chừng nào mạch khí ứng với tay mới châm vào[31]. Nó trị các chứng đầu đau, choáng váng, té nhào, bụng đau, vùng Trung tiêu bị đầy, trướng lên dữ dội, nếu như các chứng tích khí mới có, đau nhưng có dời chỗ thì dễ khỏi, nếu tích khí mà không đau thì khó khỏi”[32].

 

 

 

 

Vệ khí hành thiên
Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về con đường vận hành của khí, nó xuất nhập từ Âm kinh sang Dương và từ Dương kinh sang Âm như thế nào ?”[1].

Bá Cao đáp : "Mỗi tuế có 12 nguyệt, mỗi nhật có 12 thời[2]. Trục tý và ngọ đóng vai kinh (đường thẳng đứng), trục mão và dậu đóng vai vĩ (đường nằm ngang)[3]. Thiên vận hành 1 vòng là hết 28 tú, mỗi diện (phương) gồm 7 tinh (sao), 4 lần 7 là tất cả 28 sao[4]. Phòng và Mão đóng vai vĩ, sao Hư và Trương đóng vai kinh[5]. Vì thế từ sao Phòng đến sao Tất thuộc Dương, từ sao Mão đến sao Tâm là thuộc Âm[6]. Dương chủ ban ngày, Âm chủ ban  đêm[7]. Cho nên, sự vận hành của vệ khí, cứ mỗi ngày  và mỗi đêm  được 50 chu toàn thân: ban ngày nó vận hành ở Dương phận 25 chu, ban đêm nó vận hành ở Âm phận 25 chu, đi khắp ngũ tạng[8].     

 

            

Cho nên, sáng sớm thì Âm khí tận, Dương khí (nhận khí  từ Âm) để xuất ra ở huyệt Tinh Minh (khoé mắt trong)[9]. Khi ta mở mắt ra thì vệ khí bắt đầu đi lên trên đầu, dọc theo cổ gáy rồi theo con đường của túc Thái dương Bàng quang kinh mà xuống dưới, dọc theo lưng, xuống đến đầu ngón chân út huyệt Chí Âm[10]. Con đường tán hành mở rộng khắp của nó, tách biệt để đi từ khoé mắt ngoài đi xuống dưới theo con đường của thủ Thái dương kinh, xuống đến mép ngoài của ngón tay út huyệt Thiếu Trạch[11]. Con đường tán hành của nó tách biệt để đi từ khoé mắt ngoài, đi xuống dưới theo con đường của túc Thiếu dương kinh, rót vào trong khoảng ngón chân út và áp út huyệt Khiếu Âm, nó lại đi lên dọc theo mép cạnh của thủ Thiếu dương kinh, xuống dưới đến khoảng ngón tay út và áp út huyệt Quan Xung[12]. Con đường biệt hành nữa lên đến vùng trước tai, hợp với vùng thuộc huyệt Thừa Khấp và Giáp Xa, rồi rót vào túc Dương minh kinh để đi xuống dưới đến mu bàn chân rồi nhập vào khoảng huyệt Lệ Đoài[13]. Con đường tán hành của nó đi từ dưới tai xuống dưới theo con đường của thủ Dương minh kinh, nhập vào trong khoảng ngón tay cái, rồi nhập vào trong lòng bàn tay[14]. Riêng con đường đi xuống đến dưới chân, nó sẽ nhập vào giữa Tâm của bàn chân, xuất ra ở mắt cá trong, xuống dưới vùng Âm phận, sau đó nó lại quay trở lên để hợp với khoé mắt trong, Ta gọi đó là 1 chu[15].

Cho nên, nhật hành 1 xá (tú: 1 sao), thì nhân khí vận hành 1 chu lẻ 8/10 trong thân người, nhật hành 2 xá thì nhân khí vận hành 3 chu lẻ 6/10, nhật hành 3 xá thì nhân khí vận hành 5 chu lẻ 4/10, nhật hành 4 xá thì nhân khí vận hành 7 chu lẻ 2/10, nhật hành 5 xá thì nhân khí vận hành 9 chu, nhật hành 6 xá thì nhân khí vận hành 10 chu lẻ 8/10, nhật hành 7 xá thì nhân khí vận hành 12 chu lẻ 6/10, nhật hành 14 xá thì nhân khí vận hành 25 chu lẻ 2/10[16]. Thế là Dương tận ở Âm, còn Âm thì nhận lấy khí[17]. Khi mà khí bắt đầu nhập vào Âm, thường là đi từ túc Thiếu âm kinh để rót vào Thận, Thận lại rót vào Tâm, Tâm lại rót vào Phế, Phế lại rót vào Can, Can lại rót vào Ty,. Tỳ trở lại rót vào Thận, thế là tròn 1 chu[18]. Cũng vì thế, nếu dạ hành 1 xá, nhân khí cũng vận hành trong các Âm tạng (Âm kinh) đủ 1 chu và lẻ 8/10 (như ở Dương kinh), rồi nó cũng như ở Dương kinh vận hành đủ 25 chu, để rồi cuối cùng lại hợp nhau tại khoé mắt trong huyệt Tinh minh. Mỗi 1 nhật và 1 dạ, khí vận hành ở Dương phận và Âm phận đúng 50 chu lẻ ra 4/10, bởi vì nó vận hành Âm phận cũng phải lẻ ra 2/10, Vì thế, con người lúc ngủ lúc thức có sớm có muộn khác nhau, vì thế trong cách tính phải có số lẻ dư ra”[18].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Vệ khí vận hành ở thân thể, lên xuống, vãng lai không theo 1 thời gian cố định nào, như vậy muốn chờ đợi khí vận hành để mà tiến hành châm trị, phải làm sao?”[19]

Bá Cao đáp : “Thiên vận hành với những phân độ nhiều ít khác nhau, thời gian ban ngày có khi ngắn có khi dài, bốn mùa xuân thu đông hạ tùy theo sự tiêu trưởng của ngày đêm mà quy định dài hay ngắn[20]. Sau đó, ta dựa vào sáng sớm làm tiêu chuẩn cho ban ngày, lại dựa vào đêm tàn để biết rằng vệ khí bắt đầu vận hành ở Dương phận[21]. Vì thế, mỗi ngày và mỗi đêm, nước chảy xuống 10 khắc, 25 khắc đúng lànửa ngày, cứ thường như thế không ngưng nghỉ, đến lúc mặt trời lặn thì xem như dứt 1 ngày[22]. Chúng ta theo dõi sự dài ngắn của nhật nhập và nhật xuất, rồi dựa vào đó để làm tiêu chuẩn ngày đêm để tiến hành việc châm trị cho đúng thời[23]. Nếu chúng ta cẩn thận chờ đợi đúng thời của khí để châm trị, ta có thể đoán định thời gian chữa trị cho lành bệnh, còn nếu ta làm mất đi cái thời và nghịch lại với thời lệnh của 4 mùa thì trăm bệnh sẽ không trị được[24]. Cho nên nói rằng: châm trị hư chứng, nên châm theo phép ‘tùy nhi tế chi’ (rượt theo nó để bổ)[25]. Đây nói về việc bổ tả trước hay sau để biết được khí còn hay đã tiêu trừ, từ đó ta mới chờ đợi khí hư hay thực để mà châm trị[26]. Vì thế phương pháp chờ đợi để biết được bộ vị của khí đang ở đâu để tiến hành việc châm trị, đó gọi là phùng thời (gặp đúng với thời)[27]. Nói rõ hơn, nếu bệnh đang ở tam Dương kinh, ta nên chờ đợi khi nào khí cũng đang ở Dương phận để châm, nếu bệnh đang ở tam Âm kinh, ta nên chờ đợi khi nào khí cũng đang ở Âm phận để châm”[28].

 

 

 

Nước chảy xuống (đồng hồ) 1 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái dương[29], nước chảy xuống 2 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu dương[30], nước chảy xuống 3 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[31], nước chảy xuống 4 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận nơi túc Thiếu âm Thận[32], nước chảy xuống 5 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[33], nước chảy xuống 6 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[34], nước chảy xuống 7 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[35], nước chảy xuống 8 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận Thận kinh[36], nước chảy xuống 9 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[37], nước chảy xuống 10 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[38], nước chảy xuống 11 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[39], nước chảy xuống 12 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[40], nước chảy xuống 13 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[41], nước chảy xuống 14 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[42], nước chảy xuống 15 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[43], nước chảy xuống 16 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[44], nước chảy xuống 17 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[45], nước chảy xuống 18 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[46], nước chảy xuống 19 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[47], nước chảy xuống 20 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[48], nước chảy xuống 21 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[49], nước chảy xuống 22 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[50], nước chảy xuống 23 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[51], nước chảy xuống 24 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[55], nước chảy xuống 25 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[56]. Đây chính là độ số mà vệ khí vận hành trong nửa ngày[57]. Từ sao Phòng đến sao Tất, 14 xá, nước chảy xuống 50 khắc, xem như là 1/2 độ của tròn ngày đêm[58]. Khi nhật vận hành 1 xá, thời gian sẽ là nước chảy xuống 3 khắc 4/7[59]. Kinh Đại yếu xưa có nói: Thường thì nhật hành mỗi tú trong 28 tú, vệ khí nhất định phải ở Thái dương[60]. Như vậy, cứ mỗi lần nhật hành 1 xá thì nhân khí theo thứ tự ở tam Dương kinh rồi đến Âm phận, cứ như thế mà không ngừng nghỉ, Thiên hay Địa (Dương hay Âm đều như thế), tất cả đều rất trật tự, chung rồi lại thỉ, một ngày một đêm, nước cứ chảy 100 khắc vô tận vậy”[61].

 

 

 

 

Vệ khí thất thường thiên
Hoàng Đế hỏi: "Vệ khí vận hành thất thường bị lưu trệ ở trong bụng, súc tích không vận hành được, uất tụ lại nhưng không có nơi nhất định, làm cho trướng mãn ở chi thể, hông sườn và Vị hoãn, hơi thở suyễn, khí nghịch lên trên, dùng phương pháp gì để có thể trừ được chứng bệnh này ?”[1].

Kỳ Bá đáp : "Khi nào khí tích lại ở trong ngực, ta sẽ thủ các huyệt ở vùng thượng bộ để trị[2], khi nào khí tích lại ở trong bụng, ta sẽ thủ các huyệt ở vùng hạ bộ để trị[3], khi nào cả 2 vùng trên và dưới ngực và bụng đều trướng mãn, ta có thể thủ các huyệt quanh vùng để trị”[4].

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Thủ những huyệt nào ?”[5].

Kỳ Bá đáp : "Khí tích ở vùng ngực, nên châm tả huyệt Đại Nghênh, Thiên Đột và Hầu trung (Liêm Tuyền)[6], Khí tích ở vùng bụng nên châm tả huyệt Tam Lý và Khí Nhai (Khí Xung)[7], Nếu cả vùng ngực và bụng đều trướng mãn, nên châm tả các huyệt trên như Nhân Nghênh, Thiên Đột, Liêm Tuyền, và các huyệt dưới như Tam Lý, Khí Nhai, và huyệt nằm bên dưới sườn cụt 1 thốn là huyệt Chương Môn[8], Nếu bệnh tình nặng hơn, nên áp dụng phép châm theo kê túc ( vết chân gà)[9]. Trong lúc chẩn đoán, nếu thấy mạch của bệnh nhân đại mà huyền cấp và mạch tuyệt không đến, da vùng bụng căng lên dữ dội thì không nên châm”[10].

Hoàng Đế nói: "Đúng ! “[11].

 

 

Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Căn cứ vào đâu để biết bệnh thuộc về bì nhục, cân cốt, huyết khí ?”[12].

Bá Cao đáp : “Khi nào sắc của người bệnh hiện lên trong khoảng 2 chân mày mà  mỏng và bóng láng, đó là triệu chứng của bì phu[13]; Môi hiện lên các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đó là triệu chứng của bệnh của cơ nhục, doanh khí hao tán ra ngoài làm cho da bị thấp ướt, đó là triệu chứng của bệnh ở huyết khí[14], Đôi mắt hiện lên các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đó là triệu chứng của bệnh ở cân[15], Vành tai khô héo không nhuận trạch, như có đầy chất bẩn, đó là triệu chứng của bệnh ở cốt”[16].

Hoàng Đế hỏi: "Hình trạng của bệnh biểu hiện ở nơi nào ? Thủ huyệt châm trị như thế nào ?”[17].

Bá Cao đáp : “Ôi ! Sự biến hóa của các bệnh không thể kể hết được, tuy nhiên, bì bệnh có bộ của nó, nhục bệnh có bắp của nó, huyết khí bệnh có chỗ vận hành của nó, cốt bệnh có chỗ thuộc vào của nó”[18].

Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về những nguyên nhân ấy”[19].

Bá Cao đáp : “Bộ vị của bì bị bệnh, nên thủ huyệt trị nơi cạn của tứ chi[20], Các bắp của cơ nhục bị bệnh, nên thủ huyệt châm trị nơi trong khoảng phận nhục của bắp tay, bắp cẳng chân, tức nơi vận hành của các kinh Dương, và những nơi bắp thịt gồ lên, con đường vận hành của kinh Túc Thiếu âm (Thận)[21], Huyết khí bị bệnh, nên thủ huyệt châm trị nơi các lạc mạch có kinh khí đi qua, khi nào khí huyết bị ủng tắc lưu lại, nó sẽ làm cho nơi đó bị thịnh (gồ lên)[22], Cân bị bệnh thì không cần có sự phân biệt Âm Dương, bên phải bên trái gì cả, chỉ căn cứ vào nơi bộ vị phát ra bệnh để châm trị[23], Bệnh ở tại cốt, nên thủ huyệt nơi thuộc vào của nó (tức những nơi quan tiết), để châm trị, bởi vì những huyệt cốt không chính là nơi tiếp nhận tủy dịch để làm sung thực cho não tủy”[24].

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Phép thủ huyệt phải thế nào ?”[25].

Bá Cao đáp : “Ôi ! Sự biến hóa của bệnh không giống nhau, bệnh có phù có trầm, phép châm có sâu có cạn, phép trị liệu thật vô cùng, ta phải căn cứ vào tình huống của bệnh nơi bì nhục cân cốt để mà đưa vào bộ vị của từng loại để thủ huyệt châm: bệnh nhẹ nên dùng phép châm cạn, bệnh nặng nên dùng nhiều kim, tùy theo bệnh biến mà ta điều khí, cho nên gọi đây là bậc thượng công: thầy thuốc khéo”[26].

Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Hình thân của con người có béo gầy, có lớn nhỏ, có hàn ôn; về tuổi tác, có lão, có tráng, có thiếu, có tiểu, làm thế nào phân biệt được những khác biệt ấy ?”[27].

Bá Cao đáp : “Con người từ 50 tuổi trở lên gọi là lão, từ 20 tuổi trở lên gọi là tráng, từ 18 tuổi trở xuống gọi là thiếu, từ 6 tuổi trở xuống gọi là tiểu”[28].

Hoàng Đế hỏi: "Lấy gì để am hiểu vấn đề béo và gầy ?”[29].

Bá cao đáp :”Con người béo chia làm phì, cao, nhục 3 loại”[30].

Hoàng Đế hỏi: "Phân biệt thế nào về 3 loại người này ?”[31].

Bá Cao đáp : “Các bắp thịt vùng vai, tay, gối, đùi... được rắn chắc, bì phu sung mãn, đó là loại hình của người phì [32], Các bắp thịt ... không rắn chắc, bì phu mềm nhão, đó là loại hình của người cao[33], Bì phu và cơ nhục bám chắc vào nhau, đó là loại hình của người nhục”[34].

Hoàng Đế hỏi: "Phân biệt thế nào về sự hàn ôn của 1 người ?”[35].

Bá Cao đáp : “Người thuộc loại hình cao, bắp thịt của họ mềm mà nhuận, tấu (lý) thô, thân của họ hàn, tấu (lý) nhuyễn mà kín, thân của họ nhiệt[36]. Người thuộc loại hình chỉ, bắp thịt của họ rắn chắc, tấu lý của họ nhuyễn mà kín, thân của họ nhiệt, tấu (lý) thô, thân của họ hàn”[37].

Hoàng Đế hỏi:"Những người này biểu hiện ra thân hình béo gầy, to nhỏ như thế nào ?”[38].

Bá Cao đáp : “Loại hình của người cao, (Dương) khí nhiều (thịnh) bì phu của họ lơi lỏng hơn, cho nên bụng của họ lơi và phệ xuống[39]. Loại hình của người nhục, thân thể họ to lớn[40]. Loại hình của người chỉ (cơ nhục kín, chắc) cho nên thân thể của họ nhỏ hơn loại cao và nhục”[41].

Hoàng Đế hỏi: "Tất cả 3 loại hình của số người nói trên, về mặt khí huyết  nhiều ít như thế nào ?”[42].

Bá Cao đáp : “Loại người cao thì khí của họ nhiều, khí thuộc Dương, mà khí nhiều thì nhiệt, người nhiệt thì dễ chịu được lạnh [43]. Loại người nhục thì huyết của họ nhiều, huyết nhiều thì làm cho hình nhân được sung thực, hình nhân được sung thực thì sẽ được bình hòa[44]. Loại người chỉ thì huyết của họ thanh, khí của họ hoạt trơn mà ít, cho nên hình thân của họ không thể to lớn được[45]. Những loại người này khác với người bình thường (chúng nhân )”[46].

Hoàng Đế hỏi: "Chúng nhân là người như thế nào ?”[47].

Bá Cao đáp : “Chúng nhân là người mà từ da thịt, mỡ cao, mỡ chỉ (bình thường) không thể thêm vào cho mập lên được, huyết và khí cũng bình hòa không thể nhiều hơn về phía nào, vì thế hình thân của họ không nhỏ hơn mà cũng không to lớn hơn, tất cả từ bì nhục cân cốt đều tự cân xứng nhau với vóc dáng của mình, ta gọi những người đó là chúng nhân”[48].

Hoàng Đế nói: " Đúng thế ! Phép trị phải thế nào ?”[49].

Bá Cao đáp : “Trước hết nên phân biệt cho được 3 loại hình khác nhau như đã nói, phải nắm cho được sự  nhiều ít của huyết, sự thanh trọc của khí, rồi sau đó mới áp dụng phép điều hòa khí huyết. lúc điều trị, đừng để mất đi cái lẽ thường của sự vận hành của kinh mạch[50]. Xin nhắc lại loại hình của người cao bụng của họ lơi và phệ xuống, loại hình của người nhục thì trên dưới đều to lớn, loại hình của người chỉ, cho dù họ có nhiều mỡ béo, họ cũng không thể to lớn như người cao và nhục được”[51].

Theo : LK 52 ,59 ,76

Partager cet article
Repost0
10 juin 2010 4 10 /06 /juin /2010 08:37

Ngũ tà thiên
Tà khí ở tại Phế sẽ làm cho bệnh bì phu bị đau, hàn nhiệt, khí lên trên làm cho suyễn, mồ hôi ra, ho động đến vùng vai và lưng[1]. Thủ huyệt du nằm ở phía ngoài của vùng giữa ngực và huyệt nằm ở cạnh của ngũ tạng du ở tiết xương thứ  3, dùng tay đè lên chỗ nào thấy dễ chịu (đó là chân huyệt), nên châm chỗ đó, thủ huyệt giữa Khuyết bồn để xua đuổi (Phế tà)[2].

 

Tà khí ở tại Can sẽ làm cho trong khoảng hông sườn bị đau, bị hàn ở trong giữa thân, ác huyết ở trong, khi đi đứng thường hay bị co rút, thường là sưng thũng ở chân[3]. Nên thủ huyệt Hành Gian nhằm dẫn thống khí dưới hông sườn, bổ huyệt Tam lý nhằm làm ôn (ấm) trong Vị, thủ ác huyết  ở huyết mạch nhằm làm tán ác huyết, thủ những nơi có mạch mầu xanh nằm trong vùng tai nhằm xua đuổi chứng co rút[4].

 

Tà khí ở Tỳ Vị sẽ làm cho bệnh cơ nhục thống, khi Dương khí hữu dư, Âm khí bất túc thì sẽ thành chứng nhiệt trung, dễ đói; khi Dương khí bất túc, Âm khí hữu dư thì sẽ thành chứng hàn trung, ruột kêu (sôi) bụng đau, đó là Âm Dương đều hữu dư, nếu âm dương đều bất túc thì hữu hàn, hữu nhiệt; tất cả đều điều hòa bằng huyệt Tam Lý [5].

 

 

Tà khí ở tại Thận sẽ làm cho bệnh cốt thống, Âm tý - bệnh Âm tý là chứng mà ta dùng tay đè lên không biết được, bụng trướng, thắt lưng đau, đại tiện khó khăn, đau từ vai, lưng, cổ và gáy, thường hay bị choáng váng, nên thủ huyệt Dũng Tuyền và Côn Lôn, khi thấy có huyết ứ nên châm xuất huyết cho hết[6].

 

 

Tà khí ở tại Tâm sẽ làm cho bệnh Tâm thống, thường hay lo buồn, choáng váng té xuống, nên xem hữu dư hoặc bất túc để điều hòa các du huyệt[7].

 

 

 

 

Tà khách thiên
Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Ôi ! Tà khí ở khách nơi con người, có khi làm cho mắt không nhắm lại được, không nằm được chỉ muốn ra ngoài, khí gì đã gây nên như thế ?”[1].

 

Bá Cao đáp : “Ngũ cốc nhập vào Vị, chất bã, tân dịch, và tông khí đều đi theo đúng 3 con đường của mình[2]. Do đó, ta biết tông khí tích lại trong ngực, xuất ra ở cổ họng nhằm quán thông Tâm mạch để rồi làm vận hành con đường hô hấp[3]. Doanh khí thì đưa tân dịch thấm chảy ra để rót vào mạch, hóa thành huyết, nhằm làm tươi thắm cho tứ chi, bên trong nó rót vào lục phủ ngũ tạng, vận hành khắp chu thân, ứng được với con số lậu thủy bách khắc[4]. Vệ khí xuất ra từ khí nhanh lẹ, hung hãn của thủy cốc, trước hết vận hành trong khoảng bì phu, phận nhục và tứ chi, vận hành 1 cách

không ngừng nghỉ[5]. Ban ngày nó vận hành ở Dương phận, ban đêm vận hành ở Âm phận, thường đi từ vùng khí của Túc Thiếu âm Thận, sau đó vận hành đến ngũ tạng lục phủ[6]. Nay nếu tà khí quyết nghịch để ở khách tại ngũ tạng lục phủ, sẽ làm cho vệ khí chỉ có thể bảo vệ bên ngoài, và chỉ vận hành được ở Dương phận không nhập được vào Âm phận, nhân vì vệ khí chỉ vận hành được ở Dương, cho nên Dương khí bị thịnh, khi mà Dương khí bị thịnh sẽ làm cho mạch Dương Kiểu bị sung mãn, mà không nhập vào được Âm phận, Âm bị hư, làm cho mắt không nhắm lại được”[7].

 

 

Hoàng Đế nói: "Đúng vậy ! Phép trị phải thế nào ?”[8].

Bá Cao đáp : “Phép trị phải bổ phần Âm bất túc, phải tả phần Dương hữu dư, điều hòa khí hư và thực, làm thông sướng được mạch đạo, đuổi được tà khí[9]. Nên uống 1 tễ Bán Hạ Thang, khi nào Âm Dương được thông thì người ta sẽ ngủ được an giấc ngay”[10].

 

 

Hoàng Đế nói: "Đúng vậy ! Đây gọi là phương pháp khai thông ngòi nào đang bị ủng tắc, làm cho kinh mạch đại thông, làm cho Âm Dương điều hòa ổn định, Ta mong được nghe về vai trò của bài Bán Hạ Thang”[11].

Bá Cao đáp : “Phép dùng bài Bán Bạ Thang này là: phải lấy 8 thăng nước từ nguồn nước ngoài ngàn dặm, chứa trong 1 dụng cụ bằng sành, rồi quậy lên đến vạn lần, lóng lấy nước trong 5 thăng, dùng củi bằng cây lau sậy để nấu nước, đợi sôi rồi cho vào 1 thăng gạo nếp, xong dùng 5 hợp Bán Hạ cho vào, sắc bằng lửa nhỏ, đến chừng nào còn khoảng 1 thăng rưỡi bỏ bã, uống 1 ly nhỏ nước cốt, mỗi ngày uống 3 lần, hoặc dựa vào bệnh tình, nếu nặng hơn, nhắm chừng độ thích ứng để uống[12]. Vì thế, nếu bệnh mới phát, chỉ cần uống xong, úp ly vào chỗ cũ (vừa uống xong) thì người bệnh sẽ nằm xuống ngủ, hoặc mồ hôi vừa ra thì khỏi bệnh[13]. Nếu bệnh đã lâu, chỉ cần uống xong 3 tễ là khỏi bệnh”[14].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Ta mong được nghe về tứ chi, và bách tiết của con người ứng với Thiên Địa như thế nào ?”[15].

Bá Cao đáp : “Trời tròn, Đất vuông, ứng với đầu người tròn và chân người vuông[16]. Trời có mặt trăng, con người có đôi mắt[17]. Đất có cửu châu, con người có cửu khiếu[18]. Trời có mưa gió, con người có vui giận[19]. Trời có sấm điện, con người có âm thanh[20]. Trời có tứ thời, con người có tứ chi[21]. Trời có ngũ âm, con người có ngũ tạng[22]. Trời có lục luật, con người có lục phủ[23]. Trời có mùa đông hạ, con người có khí hàn nhiệt[24]. Trời có Thập nhật (can), con người có thập chỉ (ngón tay)[25]. Đất có 12 Địa chi, con người có 10 ngón chân, có Dương vật và dịch hoàn để ứng, con gái không có 2 vật (dương vật và hòn dái) nhưng có khả năng mang thai[26]. Trời có Âm Dương, con người có vợ chồng[27]. Trời có 365 ngày, con người có 360 (365) cốt tiết[28]. Đất có núi cao, con người có vai và gối[29]. Đất có hang sâu, con người có nách và kheo chân[30]. Đất có 12 kinh thủy, con người có 12 kinh mạch[31]. Đất có mạch suối dưới lòng đất, con người có vệ khí[32]. Đất có cỏ mọc khắp nơi, con người có lông hào và lông mao khắp thân mình[33]. Trời có ngày đêm, con người có ngủ thức[34]. Trời có các vị sao, con người có 2 hàm răng[35]. Đất có núi nhỏ, con người có cốt tiết nhỏ[36]. Đất có núi và đá, con người có xương gồ lên cao[37]. Đất có cây rừng, con người có cân mạch[38]. Đất có  nơi để người ta tụ họp lại thành ấp, con người có những bắp thịt gồ lên[39]. Tuế (năm) có 12 nguyệt, con người có 12 tiết[40]. Đất có những nơi mà tứ thời không sinh ra cỏ, con người có những người không có con[41]. Đó là sự tương ứng giữa Trời Đất và con người”[42].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ta mong được nghe giảng về những phép tắc về những thao tác trong khi châm, về nguyên lý trong việc châm kim vào thân người, về ý nghĩa việc bổ tả, nghênh tùy, về thao tác căng da để làm khai tấu lý, tất cả những vấn đề đó, phải hiểu như thế nào ?[43]. Đồng thời con đường khúc chiết, quanh co, xuất nhập của mạch khí, đến nơi nào thì xuất ra ? Đến nơi nào thì dừng lại ? Đến nơi nào thì chậm lại ? Đến nơi nào thì nhanh lên ? Đến nơi nào thì nhập vào ?[44]. Và ngay cả các du huyệt thuộc lục phủ rót vào toàn thân, ta mong được nghe tường tận về những vấn đề

trên”[45].

Kỳ Bá đáp : "Những vấn đề mà bệ hạ hỏi, đã bao gồm cả đạo của châm trị rồi !”[46].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe cho rõ”[47].

Kỳ Bá đáp : "Mạch của thủ Thái âm, xuất ra từ đầu ngón tay cái, quay vào bên trong, đi dọc theo lằn biên của thịt trắng, chạy đến phía sau xương bản tiết là huyệt Thái Uyên, lưu lại tại đây làm động ra ngoài da, nó lại quay ra bên ngoài, lên đến phía dưới xương bản tiết, xong lại quay vào trong, hội với các mạch âm lạc tại vùng Ngư tế, nơi đây vài mạch đạo hợp lại và cùng rót chảy đi, khí của chúng rất hoạt lợi, bắt đầu vận hành ngầm bên dưới xương của vùng Ngư, nó lại quay ra ngoài, xuất ra ở bộ Thốn khẩu để theo đường kinh vận hành lên (Kinh Cừ) đến mép trong cánh chỏ, nhập vào bên dưới đường gân lớn (Xích Trạch), lại quay trở vào trong, lên trên vận hành đến vùng Âm của cánh tay trên, nhập vào dưới nách, lại quay vào trong, chạy đến Phế; đây là con đường thuận hành của kinh thủ Thái âm Phế, từ Phế đến ngón tay và cũng là con đường nghịch hành khúc chiết của kinh này đi từ ngón tay đến Phế[48].

 

 

Mạch của thủ Tâm chủ, xuất ra từ đầu ngón tay giữa (Trung Xung) quay vào trong, đi dọc theo mép trong của ngón giữa rồi đi lên trên, lưu lại ở giữa lòng bàn tay (Lao Cung), lại đi ngầm giữa 2 xương, quay ra ngoài, xuất ra ở giữa 2 đường gân, nơi khoảng giao nhau giữa nhục và cốt (Đại Lăng), khí của nó hoạt lợi, lên trên 2 thốn, quay ra ngoài, xuất ra, vận hành ngay giữa 2 đường gân (Gián Sứ), lên trên đến mép trong của cánh chỏ, nhập vào phía dưới đường gân nhỏ, lưu lại nơi giao hội của 2 đầu xương (Khúc Trạch), sau đó lên trên nhập vào trong vùng ngực, bên trong liên lạc với mạch

của Tâm”[49].

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Mạch của thủ Thiếu âm riêng mình không có huyệt Du, tại sao thế ?”[50].

Kỳ Bá đáp : "Mạch Thiếu âm là mạch của Tâm[51]. Tâm là đại chúa của ngũ tạng lục phủ, là chỗ ở của tinh và thần[52]. Tạng của Tâm rất kiên cố, tà khí không thể đến ở được trong ấy, nếu tà khí có thể vào ở được nơi ấy thì Tâm bị thương, Tâm bị thương thì thần sẽ ra đi, thần ra đi thì chết[53]. Cho nên khi nói rằng tà khí ở tại Tâm, đó là tà khí ở tại bào lạc của Tâm[54]. Bào lạc là mạch của Tâm chủ, cho nên riêng Tâm 1 mình không có huyệt Du”[55].

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Nếu nói rằng mạch Thiếu âm riêng mình không có huyệt Du, vậy nó không bị bệnh hay sao ?”[56].

Kỳ Bá đáp : "Nếu có bệnh thì bệnh ở ngoại kinh, chứ tạng thì không bị bệnh, vì thế nếu có bệnh ở ngoại kinh thì riêng thủ huyệt ở kinh của nó nằm ở đầu xương nhọn thuộc dưới ca lòng bàn tay (huyệt Thần Môn), phần mạch còn lại xuất nhập, khúc chiết, sự vận hành nhanh hay chậm, sẽ như sự vận hành của Thủ Thiếu âm Tâm chủ[57]. Vì thế huyệt Thần Môn được xem như du huyệt của kinh này[58]. Trong lúc có bệnh nên căn cứ vào sự hư thực của mạch khí, vào sự nhanh hay chậm của mạch khí để thủ huyệt này trong việc điều trị, nói rõ hơn, nếu tà khí kháng thịnh thì dùng phép tả, nếu chính khí suy, ta dùng phép bổ[59]. Được vậy, tà khí sẽ bị trừ đi, chân khí sẽ được vững vàng hơn, đây gọi là ta đã dựa vào sự thuận tự của Trời (thể hiện qua kinh mạch) vậy”[60].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Phép châm có bổ tả nghênh tùy, như thế nào ?”[61].

Kỳ Bá đáp : "Trước hết, phải biết rõ về gốc và ngọn của 12 kinh mạch, biết rõ sự hàn nhiệt ở bì phu, rõ sự thịnh suy, hoạt sắc của mạch khí[62]. Nếu mạch hoạt mà thịnh, đó là bệnh ngày càng nặng thêm, nếu mạch hư mà tế, đó là chính khí ngày suy hơn, bệnh tuy kéo dài nhưng vẫn duy trì được sự sống[63]. Nếu mạch đại mà sắc, đó là bệnh thuộc thống, tý[64]. Nếu bệnh mà ngoài và trong, biểu và lý đều suy kiệt, đây là bệnh khó chữa khỏi, không nên dùng phép châm cứu[65]. Nếu vùng ngực bụng và tứ chi vẫn có nhiệt, đó làbệnh hãy còn, nếu vùng này mà nhiệt đã thoái, đó là bệnh cũng

khỏi[66]. Chúng ta còn phải xét cho rõ vùng da của xích (vùng da từ cánh chỏ đến cổ tay), đồng thời xét rõ sự mềm hay cơ nhục, xét đến mạch đại, tiểu, hoạt hay sắc, phân biệt cho được tình trạng hàn ôn hay táo thấp[67]. Ngoài ra, ta còn phải xét đến ngũ sắc ở mắt nhằm biết được tình huống ở ngũ tạng, để mà quyết đoán việc sống chết[68]. Phải thấy được những đường huyết lạc, xét được màu sắc của bì phu, nhằm biết được các chứng hàn nhiệt, thống tý”[69].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Vấn đề thủ pháp của việc bổ tả, nghênh tùy này, ta chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó thế nào cả ?”[70].

Kỳ Bá đáp : "Cái Đạo nguyên tắc của thủ pháp châm thích, đòi hỏi người thầy phải có thái độ đoan chính, có 1 tâm tình an tĩnh[71]. Trước hết phải biết được bệnh tình hư hay thực, để rồi mới áp dụng phương pháp bổ tả nhanh hay chậm[72]. Tay trái ta phải giữ cho kỹ vùng xương nào đó (tức vùng phải châm), tay phải dò theo huyệt vị trên đường kinh, khi châm vào ta không nên mạnh tay quá đề phòng người bệnh bị căng thẳng về phản ứng, bắp thịt bị co lại gây hậu quả xấu[73]. Phương pháp châm tả, phải châm kim thẳng, phép bổ phải châm cạn, làm thế nào để cho vết châm trên da được kín lại, ta còn phải dùng phép phụ trợ để dẫn được khí, khiến cho tà khí không thể tràn vào trong sâu, chân khí được ở yên và vận hành 1 cách bình thường”[74].

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Phương pháp gõ, vỗ vào da để khai phá tấu lý, như thế nào ?”[75].

Kỳ Bá đáp : "Dựa vào vùng phận nhục đang có bệnh biến, trước hết dùng tay trái gõ vào vùng bì phu, tay mặt châm nhẹ và chậm, ngay thẳng, làm cho thần kinh của người bệnh an tĩnh, không bị phân tán và tà khí cũng đồng thời bị đuổi đi”[76].

 

 

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Con người có cái gọi là bát hư, mỗi cái như vậy được biểu hiện như thế nào ?”[77].

Kỳ Bá đáp: "Mỗi cái như vậy biểu hiện cho mỗi tạng”[78].

Hoàng Đế hỏi: " Biểu hiện như thế nào ?”[79].

Kỳ Bá đáp : "Khi Tâm và Phế có tà khí thì nó sẽ lưu lại nơi 2 cánh chỏ[80]; Khi Can có tà khí, nó sẽ lưu lại nơi 2 bên nách[81]; Khi Tỳ có tà khí, nó sẽ lưu lại nơi 2 mấu chuyển lớn[82]; Khi Thận có tà khí, nó sẽ lưu lại ở 2 kheo chân[83]. Phàm tám loại gọi là bát hư này (2 cánh chỏ, 2 bên nách, 2 bên mấu chuyển lớn, 2 kheo chân) là nơi ở của các cơ quan, là nơi đi qua của chân khí, là nơi đi chơi của huyết lạc[84]. Do đó mà, dĩ nhiên, tà khí và ác huyết không có quyền đến ở và lưu lại các nơi đó, nếu như tà khí, ác huyết đến ở và lưu lại các nơi này chúng sẽ làm cho thương đến cân, lạc, cốt, tiết, cơ, quan, các nơi này sẽ không co duỗi được nữa, tình huống này sẽ sinh ra bệnh co giật “[85]

Theo : LK 20, 71 

 

 

 

 

 

 

Partager cet article
Repost0
9 juin 2010 3 09 /06 /juin /2010 16:43

Luận tật chẩn xích thiên


Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ta muốn rằng không cần phải nhìn sắc diện, không cần phải bắt mạch, chỉ cần chẩn được các bộ vị của da nơi bộ xích để nói lên được cái bệnh, tức là phương pháp quan sát đi từ bên ngoài để biết được bên trong, Ta phải làm thế nào để đạt được những điều kể trên”.

 

 

Kỳ Bá đáp : "Ta nên thẩm đoán được tình trạng hoãn hay cấp, đại hay tiểu, hoạt hay sắc của bộ vị của xích phu, thẩm đoán sự cứng hay mềm của cơ nhục, nhờ vậy ta sẽ nắm được bệnh thuộc loại hình nào.

 

Ví dụ: ta thấy khoé mắt dưới của người bệnh bị hơi sưng lên, giống như người mới ngủ thức dậy, mạch ở cổ nhịp động, thỉnh thoảng có ho, khi ta dùng tay đè lên vùng tay chân, nơi bị đè lõm xuống mà không nổi lên như cũ, đó là chứng trạng của Phong thủy phu trướng. Bộ vị xích phu trơn, nhuận trạch, đó là Phong bệnh.

 

Cơ nhục ở bộ vị xích phu mềm nhũn gọi là giải diệc, người cứ như muốn buồn ngủ 1 cách tối tăm ngây ngây, cơ nhục gầy héo đi, đó là bệnh thuộc hàn nhiệt hư lao, không trị được. Bộ vị của xích phu trơn, như thoa mỡ vào ngón tay, đó là Phong bệnh. Bộ vị của xích phu rít, đó là bệnh thuộc Phong tý. Bộ vị của xích phu thô sần sùi như chiếc vảy cá khô, đó là do khí Thủy thấp tràn lên đến tay chân.

 

Bộ vị xích phu nóng nhiều, mạch thịnh táo, đó là Ôn bệnh, khi nào mạch thịnh mà hoạt, đó là triệu chứng bệnh khí sắp thoát ra ngoài để lành bệnh. Bộ vị xích phu lạnh, mạch đi tiểu, đó là bệnh tiêu chảy hoặc khí hư thiểu. Bộ vị xích phu nóng đến bỏng tay, trước nóng sau lạnh, đó là hàn nhiệt. Bộ vị xích phu hàn trước, kéo dài lâu hơn sau đó mới nhiệt cũng gọi là hàn nhiệt bệnh” . Riêng vùng da của cánh chỏ bị nhiệt, là biểu hiện của từ thắt lưng trở lên bị nhiệt. Vùng da mu bàn tay bị nhiệt, là biểu hiện của từ thắt lưng trở xuống bị nhiệt. Riêng mép ngoài cánh chỏ bị nhiệt, là biểu hiện của vùng ngực bị nhiệt. Riêng mép trong cánh chỏ bị nhiệt, là biểu hiện của vùng vai và lưng bị nhiệt. Riêng giữa cánh tay bị nhiệt, là biểu hiện của thắt lưng và bụng bị nhiệt. Vùng từ cánh chỏ chạy xuống khoảng 3 đến 4 thốn bị nhiệt, là biểu hiện của trong ruột có giun. Lòng bàn tay phát nhiệt, là biểu hiện của trong bụng có nhiệt. Lòng bàn tay bị lạnh, là biểu hiện của trong bụng bị lạnh. Trên mu bàn tay nơi bạch nhục vùng ngư thượng hiện lên những lạc mạch có huyết màu xanh, là biểu hiện trong Vị (dạ dày) bị lạnh.

 

 

Bộ vị nơi bì phu của bộ xích bị nhiệt cao, mạch Nhân nghênh đại, nên đoạt huyết. Vùng xích kiên đại, mạch tiểu thậm, thiểu khí, lại gia thêm chứng phiền muộn, có thể chết ngay. Mắt hiện lên mầu đỏ, bệnh ở tại Tâm, hiện ra mầu trắng, bệnh ở tại Phế, hiện ra mầu xanh, bệnh ở tại Can, hiện ra mầu vàng bệnh ở tại Tỳ, hiện ra mầu đen, bệnh ở tại Thận. Nếu hiện ra mầu vàng mà lẫn lộn các mầu khác không phân biệt được nữa, bệnh ở tại giữa ngực. Chẩn đoán chứng đau mắt, nếu mạch gân đỏ đi từ trên xuống dưới, đó là Thái dương bệnh; nếu đi từ dưới lên trên, đó là Dương minh bệnh; đi từ ngoài chạy vào trong, đó là Thiếu dương bệnh. Chẩn đoán chứng hàn nhiệt vãng lai, có mạch gân đỏ từ trên chạy xuống đến đồng tử, nếu chỉ hiện có 1 đường thì sẽ chết sau 1 năm, nếu hiện lên 1 đường rưỡi, sẽ chết sau 1 năm rưỡi, nếu hiện lên 2 đường sẽ chết sau 2 năm, nếu hiện lên 2 đường rưỡi, sẽ chết sau 2 năm rưỡi, nếu hiện lên 3 đường, sẽ chết sau 3 năm.

 

 

Chẩn đoán về sâu đau răng, ta ấn lên con đường của kinh Dương minh, nếu mạch đi thái quá, đó là riêng kinh mạch bị nhiệt, nếu ở bên tả thì đó là bên tả bị nhiệt, nếu ở bên hữu thì bên hữu bị nhiệt, nếu ở trên thì trên bị nhiệt, nếu ở dưới thì bên dưới bị nhiệt. Chẩn đoán các huyết mạch huyết lạc, nhiều mầu đỏ đó là nhiệt nhiều, nhiều mầu xanh đó là đau nhức nhiều, nhiều mầu đen đó là bị chứng Tý lâu ngày, nếu cùng lúc hiện lên nhiều mầu như nhiều đỏ, nhiều đen, nhiều xanh, đó là bệnh kiêm cả hàn nhiệt.

 

 

Thân mình đau, sắc mặt lại hơi vàng, men răng vàng, trên móng tay cũng hiện lên mầu vàng, đó là chứng hoàng đản, người bệnh hay thích nằm, tiểu tiện ra màu vàng pha đỏ, mạch tiểu mà sáp, không thèm ăn. Có người bệnh, mạch Thốn khẩu nhịp đại tiểu giống với mạch Nhân nghênh, hoặc nhịp phù trầm cũng giống nhau, đó là bệnh khó trị khỏi. Người con gái nếu phát hiện thấy mạch của thủ Thiếu âm Tâm động manch, đó là biểu hiện của sự mang thai[32]. Bệnh của trẻ con, tóc của chúng bị dựng ngược lên, phải chết[33]. Nếu bên tai có gân xanh nổi lên (làm cho thân mình hay tay chân, gân) bị đau buốt, đại tiện như tiêu chảy, tiêu ra phân như những hạt dưa đỏ, mạch tiểu, tay chân lạnh, bệnh này khó lành. Khi nào tiêu chảy, mạch tiểu, tay chân ấm, chứng tiêu chảy sẽ dễ trị khỏi.

 

 

Sự biến hóa của khí hóa trong bốn mùa, sự tương thắng của hàn thử, khi Âm tiến đến cực thì biến thành Dương, khi Dương tiến đến cực thì biến thành Âm, cho nên Âm chủ về Hàn, Dương chủ về nhiệt, cho nên khi hàn thậm thì sẽ thành Nhiệt, Nhiệt thậm thì thành Hàn, Cho nên mới nói: Hàn sinh ra Nhiệt, Nhiệt sinh ra Hàn. Đó là con đường biến hóa của Âm Dương, cho nên nói rằng: nếu mùa đông, bị thương bởi Hàn thì mùa xuân sinh ra bệnh tiêu chảy hoặc bệnh lỵ, mùa hạ bị thương bởi Phong thì mùa hạ sinh ra bệnh tiêu chảy hoặc bệnh lỵ, mùa hạ bị thương bởi Thử thì mùa Thu sinh ra bệnh sốt rét, mùa thu bị thương bởi Thấp thì mùa đông sinh ra bệnh ho, Đây là bệnh xảy ra thuận theo tứ thời vậy”.

 

 

 

 

 

Ngũ sắc thiên
Lôi Công hỏi Hoàng Đế: “Ngũ sắc riêng hiện rõ trên Minh đường ư ? Tiểu tử này chưa hiểu ý nói gì”[1].

Hoàng Đế đáp: "Minh đường là vùng trên mũi. Khuyết là vùng giữa đôi mày, đình là nhan (trán và 2 bên), phồn là vùng 2 bên má, tế là vùng cửa vào lỗ tai[2]. Trong khoảng những vùng đó, nếu được biểu hiện nổi bật và rõ ràng, đứng cách nhau chừng 10 bộ, ta cũng thấy được nó hiện ra ngoài, người như thế là thọ (sống lâu), ắt đạt đến trăm tuổi”[3].

 

 

Lôi Công hỏi: “Ngũ quan được phân biện như thế nào ?”[4].

Hoàng Đế đáp: "Phần cốt cao của Minh đường thì nổi bật lên, phần bình của Minh đường thì thẳng, đó là tượng của ngũ tạng theo đúng vị trí ở trung ương, lục phủ nương vào 2 bên, đầu và mặt lên ở vùng khuyết đình, vương cung ở vào vùng hạ cực, ngũ tạng được an ở vùng ngực, như vậy chân sắc của ngũ tạng sẽ đầy đủ và bệnh sắc sẽ không đến được, nhờ vậy mà vùng minh đường được nhuận trạch, sao nói rằng ngũ quan không phân biện được?”[5]

 

 

 

Lôi Công hỏi: “Tiểu tử có thể nghe về trường hợp không thể phân biện được hay không?”[6].

Hoàng Đế đáp: "Sự biểu hiện của ngũ sắc đều xuất hiện vào đúng nơi sắc bộ của nó: Khi nào cốt của vùng sắc bộ này mà hãm xuống thì người đó không thể tránh được bệnh, và khi nào các vùng sắc bộ thừa tập nhau thì dù cho có bệnh nặng cũng không chết được ...”[7].

Lôi Công hỏi: “Xét ngũ quan biểu hiện ngũ sắc biết được gì ?”[8].

Hoàng Đế đáp: "Màu xanh và đen thì đau, màu vàng và đỏ thì nhiệt, màu trắng thì hàn, đó gọi là ngũ quan”[9].

 

 

Lôi công hỏi: “Phân biện thế nào giữa sự tăng thêm hoặc giảm dần của cơn bệnh ?”[10].

Hoàng Đế đáp: "Ta phải xét cả trong ngoài (biểu lý)[11]. Xem mạch, nếu thấy mạch Mạch khẩu hoạt, tiểu, khẩn mà trầm, đó là bệnh đang nặng thêm ở bên trong[12]; nếu thấy mạch Nhân nghênh đại khẩn mà phù, đó là bệnh đang nặng thêm ở bên ngoài[13]; Mạch Mạch khẩu phù hoạt đó là bệnh đang tiến nặng thêm[14]; mạch Nhân nghênh trầm mà hoạt, đó là bệnh ngày càng giảm[15]; Mạch Mạch khẩu hoạt mà trầm, đó là bệnh ngày càng nặng thêm ở bên trong[16]; mạch Nhân nghênh hoạt thịnh mà phù, đó là bệnh càng nặng thêm ở bên ngoài[17]. Mạch phù trầm cùng tương đẳng với tiểu đại của Nhân nghênh và Khí khẩu, bệnh khó khỏi[18]. Nếu bệnh ở tại tạng, mạch trầm mà đại thì dễ khỏi, mạch tiểu thuộc về nghịch[19]. Nếu bệnh tại phủ, mạch phù mà đại thì bệnh dễ khỏi, mạch Nhân nghênh thịnh kiên sẽ bị thương bởi Hàn, mạch Khí khẩu thịnh kiên sẽ bị thương bởi ăn uống”[20].

 

 

 

Lôi Công hỏi: “Thế nào là phương pháp dựa vào sắc để đoán được bệnh nhẹ hoặc nặng ?”[21].

Hoàng Đế đáp: "Sắc biến từ  thô đến minh (gọi là gián: nhẹ), từ trầm đến yểu gọi là nặng[22]. Sắc biến từ dưới lên trên, đó là bệnh nặng thêm, sắc biến từ trên xuống dưới, vầng mây tan trong trẻo, đó là bệnh đang khỏi dần[23]. Ngũ sắc đều có bộ vị của mỗi tạng, có bộ vị bên ngoài, có bộ vị bên trong[24]. Nếu sắc đi từ bộ vị bên ngoài để vào đến bộ vị bên trong, đó là bệnh đi từ ngoài vào trong, nếu sắc đi từ bộ vị trong để ra ngoài, đó là bệnh đi từ trong ra ngoài[25]. Nếu bệnh sinh từ bên trong thì trước trị âm, sau mới trị Dương, nếu trị nghịch lại sẽ làm cho bệnh nặng thêm[26]. Nếu bệnh sinh ra ở Dương thì trước trị bên ngoài, sau đó mới trị bên trong, nếu trị nghịch lại sẽ làm cho bệnh nặng thêm[27].

Nếu mạch hoạt đại mà đại trường, đó là bệnh từ ngoài vào, mắt như thấy 1 cái gì, giống như ghét 1 cái gì, đây là do Dương khí nhập vào nhau vậy, nó có thể biến để khỏi bệnh”[28].

 

 

 

Lôi Công hỏi: “Tiểu tử nghe nói rằng: Phong là chỗ bắt đầu của trăm bệnh, quyết nghịch là chỗ khởi lên của Hàn Thấp, làm thế nào để phân biệt được ?”[29].

Hoàng Đế đáp: "Nên xem sự biểu hiện ở giữa vùng khuyết, nếu nơi này mầu nhạt mà nhuận ướt thì thuộc Phong, còn nếu mầu da sậm sâu thì thuộc Tý, nếu sắc hiện ra ở vùng Địa, vùng hạ bộ của mặt thì đó là thuộc chứng Quyết ... Đó là cái lẽ thường của sự biểu hiện, tức là phương pháp dựa vào sắc để đoán ra chứng bệnh”[30].

 

 

 

Lôi Công hỏi: “Làm thế nào ta có thể biết được 1 người không có bệnh mà có thể chết đột ngột ?”[31].

Hoàng Đế đáp: "Khi tà khí khí mạnh nhập vào tạng phủ thì sẽ làm cho người đó không bệnh mà vẫn bị chết đột ngột”[32].

Lôi Công hỏi: “Có những khi bệnh đã giảm bớt phần nào rồi, nhưng cứ vẫn chết 1 cách đột ngột, làm thế nào để biết được điều đó ?”[33].

Hoàng Đế đáp: "Khi nào có mầu đỏ nổi lên ở 2 gò má to như ngón chân cái, dù bệnh có giảm đi nhưng vẫn chết đột ngột; khi nào có mầu đen xuất hiện nơi vùng trán to như ngón chân cái, dù không bệnh vẫn chết 1 cách đột ngột”[34].

Lôi Công lạy 2 lạy hỏi: “Đúng thay ! Cái chết đó có định vào 1 lúc nào không ?”[35].

Hoàng Đế đáp: "Xét cái sắc khí để nói được cái thời sẽ chết”[36].

Lôi Công hỏi: “ Đúng thay ! Thần xin được nghe cho kỹ”[37].

Hoàng Đế đáp: "Đình là biểu hiện cho đầu và mặt, khuyết là biểu hiện cho yết hầu, khuyết trung là biểu hiện cho Phế, hạ cực là biểu hiện cho Tâm, trực hạ là biểu hiện cho Can, bên tả của Can là Đởm, hạ là biểu hiện cho Tỳ, phương thượng là biểu hiện cho Vị, trung ương là biểu hiện cho Đại trường, nương theo Đại trường là Thận, ngay nơi Thận là rún, từ diện vương trở lên là biểu hiện cho Tiểu trường, từ diện vương trở xuống là biểu hiện cho Bàng quang và tử cung, gò má là biểu hiện cho 2 vai, bên sau gò má biểu hiện cho cánh tay, dưới cánh tay là biểu hiện của bàn tay, bên trên khóe mắt trong biểu hiện cho vùng ngực và vú, từ bên ngoài 2 má trở lên biểu hiện cho vùng lưng, dọc theo hàm của răng xuống dưới biểu hiện cho đùi vế, vùng chính giữa của 2 hàm răng biểu hiện cho đầu gối, từ đầu gối trở xuống thuộc cẳng chân, ngay từ cẳng chân trở xuống là bàn chân, vùng nếp nhăn ở 2 bên miệng biểu hiện cho mép trong đùi vế, vùng xương quai cơ động biểu hiện cho vùng di động của từ môi đến huyệt Địa thương[38]. Trên đây là những bộ vị của những chi và tiết của ngũ tạng lục phủ, mỗi sự biểu hiện đều có bộ phận của nó mà khi đã định được bộ phận thì có thể dùng Âm để hòa cho Dương, dùng Dương để hòa cho Âm[39]. Nếu rõ được bộ phận thì vạn lần hành động vạn lần đúng, và nếu phân biệt được con đường quay tả và quay hữu tức là đã biết được con đường lớn của Âm Dương vậy[40]. Sự biểu hiện sẽ có những bộ vị khác nhau về sắc khí ở nam hay nữ, cho nên gọi đó là con đường vận hành của Âm Dương, nếu thẩm sát được sự nhuận trạch hoặc khô héo, đó gọi là người thầy khéo[41].

 

 

 

Sắc khí nếu nổi rõ ra ngoài mà dơ đục, tối tăm thuộc về nội (lý), nếu nổi rõ ra ngoài mà nhuận trạch sáng sủa thì thuộc về ngoại (biểu)[42]. Dựa vào sự biểu hiện, của sắc khí trên mặt ta có thể đoán được: nếu biểu hiện bằng mầu vàng, đỏ, đó là thuộc Phong[43], mầu xanh đen thuộc chứng đau[44], mầu trắng thuộc Hàn[45], mầu vàng mà nhuận trạch như mầu mỡ béo, đó là triệu chứng của ung và mủ[46], mầu đỏ sậm là triệu chứng của huyết ứ lại, đau nhức nặng đến vùng gân và cốt sẽ thành chứng co quắp, nếu lạnh nhiều sẽ làm cho da mất cảm giác[47]. Ngũ sắc đều biểu hiện nơi bộ vị của mình: nên xét rõ sự phù hay trầm để biết được nó ở cạn hay sâu[48], nên xét được sự nhuận trạch hoặc khô héo để nắm được sự thành bại[49], nên xét sự phân tán hay đoàn tụ của sắc khí để biết được bệnh mới hay cũ[50], nên xét xem sắc khí đang đi lên hay xuống để biết bệnh xảy ra nơi nào[51], nên giữ thần khí ở Tâm để biết được bệnh đã qua lâu rồi hay bệnh mới gần đây[52]. Vì thế, nếu ngắm khí sắc mà không tinh vi thì ta không thể biết được đúng hay sai, chỉ có khi nào ta để tâm và ý thuộc vào nhau tức là chuyên tâm lưu ý đừng để nó bị xao động ra ngoài thì ta mới có thể biết được bệnh cũ hay mới[53]. Nếu sắc khí không sáng tỏ lắm mà chỉ trầm trệ khô héo, đó là triệu chứng của bệnh nặng, còn nếu như tuy không nhuận trạch sáng suả cho lắm, nhưng cũng không đến nỗi chìm sâu và khô héo thì bệnh sẽ không nặng lắm[54]. Sắc khí tán nhưng không lưu lại, đó là bệnh chưa tụ lại, bệnh đang tán rộng, cho dù khí có đau nhức cũng chưa tụ lại thành nơi nào[55].

 

 

 

Khi mà Thận thừa lên Tâm thì Tâm bệnh trước nhưng Thận sắc lại ứng để hiện ra ngoài, sắc khí tụ lại và biểu hiện đều như thế[56]. Ở người con trai, nếu sắc khí hiện ra ở diện vương thì gây thành chứng tiểu phúc đau, biểu hiện ra ở dưới diện vương thì hòn dái bị đau[57]. Vùng của huyệt Nhân trung thuộc dương vật bị đau, vùng nằm bên trên huyệt Nhân trung thuộc thân của dương vật, vùng dưới Nhân trung thuộc đầu của dương vật, đây là trường hợp đau của chứng Hồ sán và Đồi âm[58]. Ở người con gái, nếu sắc khí hiện ra ở diện vương thì bệnh sẽ xảy ra ở Bàng quang và tử cung: nếu sắc khí tán ra thì sẽ đau, nếu sắc khí tụ lại thì bệnh cũng đang tụ lại, nếu đã tụ lại bên trong thì dù dạng vuông hay tròn, bên trái hoặc bên phải, đều giống như hình sắc hiện ra bên ngoài, khi nó đi theo để xuống đến bên dưới vùng diện vương thì chứng tỏ có bị chứng dâm trọc, nếu như nó biểu hiện ra như hình trạng của mỡ béo, đó là do ăn quá nhiều những thức ăn không được điều tiết, nếu sắc hiện ra ở bên trái thì bệnh ở trái, sắc hiện ở bên phải thì bệnh ở bên phải[59]. Sắc khí biểu hiện ra đều do tà khí, dù tụ hay tán cũng đều nghiêng lệch chứ không đoan chính, tất cả đều dựa vào những vùng chỉ rõ của sắc diện[60].

 

 

 

Sắc gồm xanh, đen, trắng, vàng, tất cả đều biểu hiện 1 cách đoan chính, đầy đủ, đều có những bộ phận riêng của nó, nay nếu nơi bộ phận nào đó màu đỏ, thì sắc của nó cũng đỏ và to như trái giáp, trái du lại hiện lên nơi vùng diện vương, như vậy họ sẽ chết không quá 1 ngày[61]. Khi nào khí sắc biểu hiện lên những vùng cao và nhọn, đó là khí ở đầu và mặt bị không hư cho nên tà khí mới hướng lên trên chỗ cao[62]. Khi nào sắc khí hiện ra nơi chỗ lõm nhọn xuống tức là tà khí cũng hướng xuống chỗ thấp[63]. Tà khí ở bên trái hoặc bên phải cũng luận theo lẽ như trên[64]. Khi dùng ngũ sắc để gọi các tạng thì: màu xanh thuộc về Can, màu đỏ thuộc về Tâm, màu trắng thuộc về Phế, màu vàng thuộc về Tỳ, màu đen thuộc về Thận[65]. Can hợp với cân, tâm hợp với mạch, Phế hợp với bì, Tỳ hợp với nhục, Thận hợp với cốt vậy”[66].

Theo : LK 74 ,49

 

Partager cet article
Repost0
8 juin 2010 2 08 /06 /juin /2010 13:57

Bách bệnh thỉ sinh thiên

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ôi ! Trăm bệnh bắt đầu sinh ra, tất cả đều sinh ra từ phong vũ, hàn thử, thanh thấp, và hỉ nộ. Khi mà việc hỉ nộ không điều tiết được (quá độ), nó sẽ làm tổn thương đến tạng. Khi bị cảm bởi phong vũ thì bị thương đến phần trên. Khi bị cảm bởi thanh thấp thì bị thương đến phần dưới. Khí của bộ vị (trên, giữa và dưới của con người) khi bị thương đều khác loại nhau, ta mong được nghe về lý do chính của nó”.

 

 


Kỳ Bá đáp : "Khí của tam bộ (trên, giữa và dưới) đều không giống nhau: có khi nó khởi sắc lên ở Âm, có khi nó khởi lên ở Dương, xin cho thần được nói về những nguyên lý ấy. Khi mà việc hỉ nộ của con người không điều tiết được thì nó sẽ làm thương đến tạng, tạng bị thương thì bệnh sẽ khởi lên ở Âm, khí thanh thấp thừa lúc thân thể bị hư để xâm tập vào thì bệnh sẽ khởi lên ở phía dưới, khi khí phong vũ thừa lúc thân thể bị hư để xâm tập vào thì bệnh sẽ khởi lên ở phía trên, đó là 3 bộ vị để tà tấn công vậy. Đến như tà khí tấn công vào để rồi từ đó mà tràn ngập, biến hóa thành những chứng trạng khác nhau thì không biết bao nhiêu mà kể”.

 

 


Hoàng Đế hỏi: "Ta vẫn chưa rõ ràng về vấn đề biến hóa đa dạng của các chứng bệnh, vì thế ta muốn hỏi thầy là người hiểu biết và mong được nghe rốt ráo về đạo ấy”. Kỳ Bá đáp : "Khí phong vũ, hàn nhiệt, nếu không phải là thân thể bị hư nhược, thì nó không thể tự mình làm thương đến con người được. Nếu có người nào đó đột nhiên bị tặc phong, bạo vũ (gió táp, mưa sa) mà cũng không bị bệnh, đó là do thân thể người ấy không hư nhược, vì thế mà 1 mình tà khí không thể gây bệnh được. Đây muốn nói rằng, phải do phong khí đóng vai hư tà rồi gặp thân người đang bị hư nhược, cả hai loại hư gặp gỡ nhau, bấy giờ hư tà của phong mới nhập vào thân thể để gây bệnh được. Nếu con người thân thể tráng kiện và thời lệnh chính thường, đó gọi là cả hai loại thực gặp gỡ nhau, một số người có da thịt rắn chắc tà khí không gây bệnh được. Phàm trường hợp gọi là trúng bởi hư tà, do bởi Thiên thời và hình thân, cả hai hợp nhau bởi hư tà của hình thân và thực tà của Thiên thời, bấy giờ mới sinh ra những chứng bệnh nặng. Tà khí xâm nhập vào thân thể, nó có những bộ vị nhất định của nó, tùy theo nơi nó đến ở mà có tên gọi riêng, phân làm thượng hạ, trong ngoài, phân làm tam

bộ. Vì thế, khí hư tà trúng vào người, nó bắt đầu ở nơi bì phu, bì phu bị lơi lỏng thì tấu lý mở ra, tấu lý mở ra thì tà khí sẽ đi từ lông và tóc nhập vào, khi nhập vào, nó sẽ đi vào ngày càng sâu, vào càng sâu sẽ làm cho lông và tóc dựng lên, lông và tóc dựng lên thì ta sẽ cảm thấy ớn ớn lạnh, do đó mà bì phu bị đau buốt. Nếu tà khí này mà không đi ra thì nó sẽ truyền vào để đến ở nơi lạc mạch, khi nó ở nơi lạc mạch, nó sẽ làm cho đau nhức nơi cơ nhục, nếu sự đau nhức lúc có lúc hết, đó là tà khí đi vào sâu hơn, kinh mạch sẽ thay cho lạc mạch để nhận lấy tà khí. Nếu tà khí vẫn không ra đi thì nó sẽ truyền vào để đến ở nơi kinh mạch, khi nó ở nơi kinh mạch, nó sẽ làm cho bị ớn lạnh và có lúc xảy ra kinh sợ. Nếu tà khí vẫn không ra đi thì nó sẽ truyền vào để đến ở nơi các du huyệt , khi nó ở nơi các du huyệt, nó sẽ làm cho kinh khí của lục kinh không còn thông với tứ chi nữa, như vậy các quan tiết của tứ chi bị đau nhức, cột sống ở thắt lưng bị cứng.

 

 

Nếu tà khí vẫn không ra đi thì nó sẽ truyền vào để đến ở nơi mạch của Phục xung, khi nó ở nơi mạch của Phục Xung, nó sẽ làm cho tay chân bị nặng nề và thân mình bị đau nhức. Nếu tà khí vẫn chưa ra đi thì nó sẽ truyền vào để đến ở nơi Trường Vị, khi nó ở nơi Trường Vị, nó sẽ làm cho bụng có nước, sôi lên và bụng trướng lên. Nếu hàn nhiều thì sẽ thành chứng sôi ruột, xôn tiết (tiêu chảy), ăn không tiêu, còn nếu nhiệt nhiều sẽ làm cho tiêu ra phân lỏng mà nát (màu trắng kiêm đỏ). Nếu tà khí vẫn chưa ra đi thì nó sẽ truyền để đến ở nơi ngoài Trường rồi ở trong khoảng mộ và nguyên, lưu lại trong mạch. Và nếu nó cứ mãi lưu lại mà không ra đi, nó sẽ ngừng nghỉ lại để thành tích khí. Nói tóm lại, nếu tà khí xâm nhập vào cơ thể, thì hoặc là nó lưu lại và hiện rõ nơi tôn mạch, hoặc là nó lưu lại nơi mạch khí của các du huyệt, hoặc nó lưu lại nơi mạch của Phục Xung, hoặc nó lưu lại nơi đường cân của hai bên thăn thịt ở cột sống, hoặc nó lưu lại nơi các huyệt mộ và huyệt nguyên của Trường Vị, nó lên trên để nối với các đường cân khí ở nơi bụng ... Tà khí xâm nhập và tràn ngập trong thân thể ở nhiều nơi thật khó mà kể cho hết”.

 

 


Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe đầy đủ về những nguyên do ấy”. Kỳ Bá đáp : "Khi tà khí lưu lại ở mạch khí của tôn lạc để thành tích khí, khối tích khí này sẽ chạy qua chạy lại, chạy lên chạy xuống, bởi vì nó thuộc vào vùng tôn lạc của 2 cánh tay, thường là cạn và buông lơi nó không thể câu thúc khối tích khí này dừng lại, nó sẽ di chuyển và vận hành trong khoảng Trường Vị, nếu có nào thì nó sẽ tràn thấm vào bên trong, dường như có tiếng nào chảy róc rách, nếu có hàn khí thì sẽ làm trong bụng trướng mãn và sôi lên như sấm, đau lan rộng ra, thường đau quặn như dao cắt. Khi tà khí lưu lại ở kinh Dương minh, tích khí sẽ đóng quanh vùng rốn, khi nào ăn no thì thấy nó phình to ra, khi bụng đói thì nó sẽ càng nhỏ lại. Khi tà khí lưu lại ở vùng hoãn cân, nó giống với tích khí của kinh Dương minh, khi ăn no thì sẽ bị đau, khi nào đói thì sẽ dễ chịu hơn. Khi tà khí lưu lại ở mạch khí của mộ và nguyên của Trường Vị, nó sẽ làm đau ra đến bên ngoài của vùng tông cân, khi nào ăn no thì dễ chịu hơn, khi nào đói bụng thì sẽ đau.

 

 

Khi tà khí lưu lại ở mạch khí của Phục Xung, nếu chúngta dùng tay đè lên vùng bụng, ta cảm thấy như có động dưới tay, khi rời tay ra thì sẽ có luồng nhiệt khí đi xuống dưới 2 bên đùi, giống như luồng nước sôi nóng. Nếu tà khí lưu lại ở mạch khí của cân khí 2 bên thăn thịt kinh Bàng quang, và ở bên sau của Trường Vị, lúc đói sẽ thấy được tích khí hiện ra, lúc no thì tích khí không hiện ra, dùng tay đè lên cũng không thấy được. Nếu tà khí lưu lại ở mạch khí của các du huyệt thì sẽ làm cho mạch đạo bế tắc không thông, tân dịch sẽ không còn phân bố xuống, các không khiếu bị khô và ủng tắc. Trên đây là những con đường mà tà khí đi từ ngoài nhập vào trong, đi từ trên xuống dưới”.

 

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Quá trình bắt đầu sinh ra và đã thành của tích khí xảy ra như thế nào?” Kỳ Bá đáp : "Quá trình sinh ra tích khí là khi nào bị phải Hàn khí mới sinh ra, và bị quyết do hàn, khí quyết mới nghịch lên trên mới thành ra tích khí”. Hoàng Đế hỏi: "Quá trình hình thành tích khí như thế nào ?”.

Kỳ Bá đáp : "Hàn khí quyết nghịch ở dưới sinh ra chứng đau ở chân và vận động thất thường, từ đó sinh ra chứng cẳng chân bị lạnh, cẳng chân bị lạnh sẽ làm cho huyết mạch bị ngưng trệ, huyết mạch bị ngưng trệ thì Hàn khí sẽ từ dưới để lên trên để nhập vào vùng bụng làm cho bụng bị đầy trướng, vùng bụng bị đầy trướng sẽ làm cho chất bọt của trấp bị bức tụ lại mà không tán ra được, lâu ngày thành ra tích khí. Hoặc có khi đột nhiên do ăn uống quá nhiều, quá bạo làm cho Trường Vị bị đầy hoặc do sự thức ngủ bất thường không tiết độ, hoặc do dùng sức quá nhiều, tất cả sẽ làm cho lạc

mạch bị thương. Nếu Dương lạc bị thương, thì huyết sẽ tràn ngập ra ngoài, huyết tràn ngập ra ngoài sẽ làm cho chảy máu cam máu mũi; nếu Âm lạc bị thương, thì huyết sẽ tràn ngập vào bên trong, tràn ngập vào bên trong thì sẽ bị tiêu ra máu. Nếu lạc mạch của Trường Vị thương thì huyết sẽ tràn ngập ra khỏi Trường Vị, bên ngoài Trường Vị đang có hàn khí thì chất bọt của trấp và huyết cùng đánh nhau, do đó chúng bị dính vào nhau, tụ lại mà không tán ra được để rồi trở thành tích khí. Hoặc có khi đột nhiên bị tấn công bởi hàn khí bên ngoài, và nếu bên trong lại bị nội thương bởi lo buồn và tức giận, nó sẽ làm cho khí bị nghịch lên trên, khí bị nghịch lên trên sẽ làm cho con đường vận hành của mạch khí của lục kinh Thủ và Túc không thông, khí ấm không vận hành, huyết bị ngưng tụ, ứ kết lại ở bên trong, không thể tán ra được, tân dịch bị rít trệ và không thể thấm đến toàn thân, đọng lại lâu ngày không vận hành được, thế là tích khí hình thành vậy”.

 

 


Hoàng Đế hỏi: "Bệnh sinh ra ở vùng Âm thế nào ?”. Kỳ Bá đáp : "Ưu và tư thì làm thương đến Tâm; Bị lạnh ngoài hình thể lại ăn thức ăn lạnh bên trong sẽ làmthương đến Phế; Phẫn nộ làm thương đến Can; Sau khi say rượu rồi làm chuyện trai gái, hoặc khi ra mồ hôi mà đứng trước gió sẽ làm thương đến Tỳ; Dùng sức quá độ, hoặc sau khi làm chuyện trai gái, hoặc khi ra mồ hôi mà tắm sẽ làm thương đến Thận. Đó là 3 vùng thân thể nội ngoại bị sinh ra bệnh vậy”. Hoàng Đế hỏi: "Đúng vậy ! Phép trị phải thế nào ?”. Kỳ Bá đáp: "Chỉ cần quan sát được nơi đau nhức, nhắm biết được huyệt vị ứng lên thuộc bộ vị thuộc biểu lý như thế nào, biết được khí hữu dư hay bất túc, đáng bổ thì châm bổ, đáng tả thì châm tả, đừng để nghịch lại với Thiên thời, đó là phép điều trị thích đáng nhất”.

Theo: LK 66 

 

 

Partager cet article
Repost0
7 juin 2010 1 07 /06 /juin /2010 08:59

Ngũ vị thiên 

Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về vấn đề cốc khí gồm có ngũ vị để nhập ngũ tạng, sự phân biệt ấy như thế nào ?”. Bá Cao đáp : “Vị là biển của ngũ tạng lục phủ, thủy cốc đều nhập vào Vị. Ngũ tạng lục phủ đều bẩm thụ khí ở Vị. Ngũ vị đều chạy về nơi thích ứng của mình. Loại cốc nào có vị chuathì trước hết chạy về Can, loại cốc nào có vị đắng thì trước hết chạy về Tâm, loại cốc nào có vị ngọt chạy về Tỳ, loại cốc nào vị cay chạy về Phế, loại cốc nào vị mặn chạy về Thận. Khi nào cốc khí biến thành tân dịch đã được vận hành thì khí doanh vệ sẽ được thông 1 cách rộng rãi, sau đó phần còn lại biến thành chất cặn bã, theo thứ tự từ trên chạy xuống dưới ra ngoài”.

 

 


Hoàng Đế hỏi: "Khí doanh vệ vận hành như thế nào ?”. Bá Cao đáp : “Thủy cốc khi bắt đầu vào Vị, khí tinh vi trước hết xuất ra từ Vị tức từ Trung tiêu, sau đó lên đến lưỡng tiêu (Thượng và Hạ tiêu) nhằm tưới thắm ngũ tạng, nó lại tách rời đi theo 2 con đường, đó là đường của doanh (doanh vận hành trong mạch), và của vệ (vệ vận hành ngoài mạch). Phần đại khí (tông khí) chỉ đoàn tụ lại mà không vận hành thì tích lại ở trong lồng ngực, mệnh danh làKhí hải. Khí này xuất ra từ Phế, đi dọc theo cuống họng (gồm thực quản và khí quản), nhờ đó mà khi hô thì khí xuất ra, khi hấp thì khí nhập vào. Đại số (số đại cương) của tinh khí của Thiên Địa thường là xuất ra 3 phần, nhập vào có 1 phần, vì thế nếu không có cốc khí nhập vào trong nửa ngày thì khí bị suy, trọn 1 ngày thì khí bị kém vậy”.

 

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Ta có thể nghe giải thích về ngũ vị của cốc được không ?”. Bá Cao đáp : “Thần xin nói tường tận hơn: Ngũ cốc gồm: canh mễ vị ngọt, chi ma vị chua, đại đậu vị mặn, lúa mạch vị đắng, hoàng tất vị cay. Ngũ quả (trái cây) gồm: táo vị ngọt, lý vị chua, lật vị mặn, hạnh vị đắng, đào vị cay. Ngũ súc (vật) gồm: trâu bò vị ngọt, chó vị chua, heo vị mặn, dê vị đắng, gà vị cay. Ngũ thái (rau cải) gồm: rau qùy vị ngọt, rau hẹ vị chua, rau hoắc (lá đậu) vị mặn, rau kiệu vị đắng, hành vị cay. Trong ngũ sắc, khi nào sắc vàng nên ăn vị ngọt, sắc xanh nên ăn vị chua, sắc đen nên ăn vị mặn, sắc đỏ nên ăn vị đắng, sắc trắng nên ăn vị cay. Tất cả ngũ sắc này đều có những thức ăn thích hợp của nó. Điều mà ta gọi là ngũ nghi: năm loại thích hợp, đó là ngũ sắc (kết hợp với ngũ vị): Tỳ bệnh thì nên ăn cơm canh mễ, thịt bò, trái táo, rau qùy. Tâm bệnh nên ăn lúa mạch, thịt dê, trái hạnh, rau kiệu. Thận bệnh nên ăn đại đậu hoàng quyển (giá đậu nành), thịt heo, trái lật, lá đậu. Can bệnh nên ăn chi ma (mè), thịt chó, trái lý, rau hẹ. Phế bệnh nên ăn lúa hoàng tắc, thịt gà, trái đào, hành. Ngũ cấm gồm: Can bệnh cấm ăn vị cay, Tâm bệnh cấm ăn vị mặn, Tỳ bệnh cấm ăn vị chua, Thận bệnh cấm ăn vị ngọt, Phế bệnh cấm ăn vị đắng . Can hợp với sắc xanh, nên ăn vị ngọt như cơm canh mễ, thịt bò, trái táo, rau qùy, tất cả đều thuộc vị ngọt. Tâm hợp với sắc đỏ, nên ăn vị chua như thịt chó, mè, trái lý, rau hẹ, tất cả đều thuộc vị chua. Tỳ hợp với sắc vàng, nên ăn vị mặn như đại đậu, thịt heo, trái lật, lá đậu, tất cả đều thuộc vị mặn. Phế hợp với sắc trắng nên ăn vị đắng như lúa mạch, thịt dê, trái hạnh, rau kiệu, tất cả đều thuộc vị đắng . Thận hợp với sắc đen, nên ăn vị cay như lúa hoàng tắc, thịt gà, trái đào, hành, tất cả đều thuộc vị cay”.

 

 

 

 

Ngũ vị luận

Hoàng Đế hỏi Thiếu Du: "Ngũ vị khi ăn vào miệng, mỗi loại đều có nơi để nó quay về, mỗi loại đều có thể bệnh riêng. Vị chua đi về cân khí, nếu ăn quá nhiều vị chua sẽ làm cho thành chứng tiểu bí (lung); Vị mặn đi về huyết, nếu ăn quá nhiều vị mặn sẽ làm cho thành chứng khát nước; Vị cay đi về khí, nếu ăn quá nhiều vị cay sẽ thành chứng động tâm; Vị đắng đi về cốt, nếu ăn qúa nhiều vị đắng sẽ làm cho thành chứng nôn; Vị ngọt đi về nhục, nếu ăn quá nhiều vị ngọt sẽ làm cho thành chứng Tâm bứt rứt. Ta biết những gì xảy ra về chúng, nhưng ta không biết do đâu mà thành như vậy?. Ta mong được nghe giải thích về những nguyên nhân gây ra đó”.

 

 


Thiếu Du đáp: “Vị chua nhập vào đến Vị, khí của nó rít lại có tác dụng thu liễm, lên trên đến lưỡng tiêu (Trung và Thượng), không còn có thể xuất hoặc nhập được nữa, không xuất được, tức là sẽ lưu lại trong Vị, nếu trong Vị ôn hòa không tích lại được, nó sẽ xuống dưới rót vào Bàng quang, bọc của Bàng quang mỏng và mềm, khi có vị chua sẽ co rút lại, ràng buộc không thông, thủy đạo không vận hành, do đó mà sẽ bị chứng tiểu bí (lung) .Âm khí tức bộ phận sinh dục là nơi tích tụ của cân khí, cho nên vị chua nhập vào sẽ đi đến (tông) cân vậy”.

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Vị mặn khi nhập vào đến Vị, khí của nó đi lên trên để đi vào Trung tiêu, rót vào các mạch để rồi huyết khí của mạch đưa đi, khi huyết và vị mặn cùng hợp vào nhau sẽ làm cho ngưng trệ, ngưng trệ thì nước trấp trong Vị phải rót vào để tư nhuận, và vì phải rót vào cho nên thủy dịch trong Vị bị kiệt, thì con đường của yết hầu phải khô, vì thế cuống lưỡi bị khô và hay khát nước. Huyết mạch là con đường vận hành của Trung tiêu, vì thế nếu vị mặn nhập vào phải đi đến huyết vậy”.

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Vị cay đi về khí, nếu ăn nhiều vị cay sẽ làm thành chứng động Tâm, tại sao vậy ?”. Thiếu Du đáp: “Vị cay nhập vào Vị, khí của nó chạy lên đến Thượng tiêu, Thượng tiêu là nơi nhận lấy khí để mở rộng đi đến các vùng Dương của thân thể. Gừng và rau hẹ, khí của nó chưng cất lên trên, khiến cho khí doanh vệ luôn luôn nhận lấy sự (sự kích thích ấy), lưu lại lâu ngày ở dưới Tâm, khiến cho thành chứng động Tâm. Vị cay và khí cùng đi chung nhau, vì thế vị cay vào sẽ cùng đi ra ngoài với mồ hôi vậy”.

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: "Vị đắng đi về cốt, nếu ăn nhiều vị đắng sẽ làm cho người ta bị nôn, tại sao vậy ?”. Thiếu Du đáp: “Vị đắng nhập vào Vị, khí của ngũ cốc không thắng được vị đắng, vị đắng nhập vào vùng Hạ hoãn làm cho con đường vận hành của Tam tiêu bị bế tắc không thông, vì thế thành chứng nôn. Răng là nơi chấm dứt của cốt, vì thế vị đắng vào sẽ đi theo cốt, vì thế vị đắng nhập vào rồi lại quay trở ra bằng miệng và răng, cho ta biết vị đắng là quay về cốt vậy” .

 

 

 

 Hoàng Đế hỏi: "Vị ngọt đi về nhục, nếu ăn nhiều vị ngọt sẽ làm cho người ta bứt rứt ở Tâm, tại sao vậy ?”. Thiếu Du đáp: “Vị ngọt nhập vào Vị, khí của nó nhược và tiểu, không thể lên trên đến Thượng tiêu, nó sẽ cùng với cốc khí lưu lại ở trong Vị, sẽ làm cho trong Vị bị mềm và lơi lỏng. Khi mà Vị bị mềm (nhu) thì sẽ lơi lỏng, lơi lỏng thì trùng sẽ động lên, trùng động lên thì sẽ làm cho Tâm bị bứt rứt. Khí của vị ngọt, bên ngoài không thông với nhục, vì thế mới nói vị ngọt đi theo với nhục”.

Theo : LK 56 ,63

 

 

 

Partager cet article
Repost0
3 juin 2010 4 03 /06 /juin /2010 11:14

Tà khí tạng phủ bệnh hình thiên
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Tà khí trúng vào người thì thế nào ?” Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào người thì trúng vào chỗ cao”

Hoàng Đế hỏi: “Cao hay thấp, có phân độ gì không ?” .

Kỳ Bá đáp : “Từ nửa thân mình trở lên do tà khí trúng vào, từ nửa thân hình trở xuống do thấp khí trúng vào . Cho nên mới nói rằng tà khí khi trúng vào người thì không ở vào 1 nơi nhất định, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ, trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh .

 

 

Hoàng đế hỏi: “Âm và Dương, tuy có tên gọi khác nhau, nhưng cùng đồng loại với nhau, trên dưới cùng tương hội, kinh và lạc quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối . Nay tà khí trúng vào người, có khi trúng vào Âm, có khi trúng vào Dương, trên dưới, trái phải, không ở hẳn vào 1 nơi ‘hằng thường’ nào cả .Lý do nào đã khiến như thế?” [Kỳ Bá đáp : “Chỗ hội của các kinh Dương đều ở nơi mặt . Tà khí trúng vào người vào lúc mà (nguyên khí) bị hư, (tà khí) ‘thừa’ lúc đó (để vào), hoặc lúc mới dùng quá sức, hoặc ăn uống mồ hôi ra, tấu lý mở, do vậy mà tà khí mới trúng vào . Khi tà khí trúng vào mặt thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Dương minh [10]. Khi tà khí trúng vào cổ gáy, thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Thái dương. Khi tà khí trúng vào má thì nó theo xuống dưới bằng đương kinh Thiếu dương. Khi tà khí trúng vào ngực và lưng, hai bên sườn thì cũng giống như là trúng vào các kinh (Dương) vậy” .

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Tà khí trúng vào kinh Âm thì thế nào ?” .

Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào kinh Âm thường theo vùng cánh tay và cẳng chân mà bắt đầu . Ôi ! Cánh tay và cẳng chân có phần da mép trong (Âm bì) mỏng, thịt nhuận mà mềm, cho nên cùng thọ phong tà mà chỉ độc thương ở Âm mà thôi” .

Hoàng Đế hỏi: “Nguyên nhân trúng tà này có làm thương đến tạng không ?”

Ký Bá đáp : “Thân thể con người khi trúng phong, không nhất định là phải làm thương đến tạng .Bởi vì khi tà khí nhập vào theo con đường kinh Âm, bấy giờ tạng khí còn thực, tà khí vào, nhưng không thể ‘ở khách’, vì thế nó phải quay trở lại phủ.Cho nên mới nói rằng: “Tà khí trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ” .

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Tà khí khi trúng vào tạng của con người thì thế nào ?”

Ký Bá đáp : “Buồn sầu, ưu tư, sợ hãi làm tổn thương đến Tâm, thân hình đang bị lạnh, lại uống thức uống lạnh vào thì sẽ làm tổn thương đến Phế, nếu để cho 2 cái hàn (trong và ngoài) cùng cảm thì trong và ngoài đều bị thương, cho nên khí bị nghịch mà thượng hành. có khi bị té xuống, ác huyết giữ vào bên trong, hoặc có khi có việc phải giận dữ, khí lên mà không xuống được, để rồi tích ở dưới sườn, sẽ làm thương đến Can .Có khi bị đánh, té, hoặc uống rượu say rồi làm chuyện trai gái, hoặc mồ hôi mà đứng trước gió, tất cả sẽ làm thương đến Ty . Có khi dùng quá sức, gánh vác vật

nặng, hoặc làm chuyện trai gái quá độ, mồ hôi ra tắm thì sẽ làm thương đến Thận” .

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Ngũ tạng bị trúng phong như thế nào ?”

Kỳ Bá đáp : “Chỉ khi nào Âm lẫn Dương đều bị cảm thì tà khí mới có cơ hội ‘tấn công’ vào” .

Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !”

 

 

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Đầu mặt và thân hình, thuộc vào nhau do cốt (xương), liền vào nhau bởi cân (gân), đồng huyết, hợp khí . Mỗi khi trời lạnh, có thể làm nứt đất, đóng băng, khi cơn lạnh đến vội sẽ làm cho tay chân bị bủn rủn, trong lúc đó thì gương mặt của người không cần che lại tại sao thế ?” .

Kỳ Bá đáp : 12 kinh mạch, 365 lạc, huyết khí (của chúng) đều lên mặt và thoát ra bằng những không khiếu .Khí ‘tinh Dương’ thì chạy lên trên vào mắt thành ra tinh khí, khí ‘biệt’ chạy lên trên thoát ra mũi thành ra xú khí, khí ‘trọc’ xuất ra ở Vị chạy lên trên môi và lưỡi thành vị khí [30]. Tân dịch của các khí đều lên trên hơ ấm gương mặt, hơn nữa ø da mặt lại dày, bắp thịt cứng hơn .Cho nên, dù thiên khí có lạnh đến đâu cũng không ‘thắng’ được (sức chịu lạnh của mặt) vậy” .

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Khi tà khí trúng vào người thì bệnh hình như thế nào?”

Kỳ Bá đáp : “Hư tà khi trúng vào thân thì thân hình sẽ như có lúc dao động và rợn người. Chính tà khi trúng vào thân thì sẽ nhẹ hơn. Trước hết nó hiện ra ở sắc mặt, không cảm thấy gì ở thân, như có không, như hết như còn, khó mà nắm được đầy đủ sự bộc lộ ra ngoài” .

Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !” .

 

 

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Ta nghe nói: Thấy được sắc diện mà biết được bệnh, gọi là ‘minh’, án mạch mà biết được bệnh, gọi là ‘thần’, hỏi bệnh mà biết được nơi bệnh, gọi là ‘công’.Ta mong được nghe rằng làm thế nào để có thể thấy được sắc diện mà biết bệnh, án mạch mà biết bệnh, hỏi bệnh mà biết được đến nơi ?” .

Kỳ Bá đáp : “Ôi ! Sắc mặt tương ứng với nơi bì phu của bộ xích, giống như sự tương ứng với tiếng dùi trống đánh trống, không thể để cho “thất điệu” với nhau. Đây cũng là những chứng hậu xuất ra có gốc, có ngọn, có rễ, có lá . Cho nên nếu cái gốc chết thì cái lá sẽ khô vậy . Sắc mặt và hình nhục không thể cùng thất điệu với nhau . Cho nên, biết một gọi là ‘công’, biết hai gọi là ‘thần’, biết ba gọi là ‘thần và minh’ vậy” .

Hoàng đế nói: “Ta mong được nghe cho hết”.

Kỳ Bá đáp : “Sắc mặt xanh thì mạch phải Huyền, sắc mặt đỏ thì mạch phải Câu, sắc mặt vàng thì mạch phải Đại, sắc mặt trắng thì mạch phải Mao, sắc mặt đen thì mạch phải Thạch. Thấy được sắc diện mà không đắc được mạch tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch tương thắng, như vậy là chế. Khi nào đắc mạch tương sinh thì bệnh xem như là đã giảm rồi” .

 

 

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: Bệnh hình của sự biến hóa sinh ra từ ngũ tạng như thế nào?

Kỳ Bá đáp : Trước hết phải định sự tương ứng giữa ngũ sắc và ngũ mạch sau đó mới định được bệnh chứng .

Hoàng Đế hỏi: Sắc mặt đã định xong rồi phải phân biệt như thế nào nữa ?

Kỳ Bá đáp : Phải “sát” được sự hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc của mạch, được vậy thì mới định được sự biến của bệnh .

Hoàng Đế hỏi: “Sát” như thế nào ?

Kỳ Bá đáp : Mạch cấp thì nơi bì phu của bộ xích cũng cấp, mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoãn, mạch tiểu thì nơi bì phu của bộ xích cũng gầy yếu và thiếu khí, mạch đại thì nơi bì phu của bộ xích cũng phồng lên, mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoạt, mạch sắc thì nơi bì phu của bộ xích cũng sắc . Phàm tất cả sự biến này, có vi, có thậm .Cho nên, người nào khéo “sát” được bộ xích thì không cần đến bộ thốn, người nào khéo “sát” được mạch thì không cần đợi ở sắc diện, người nào có thể “tham hợp” tất cả để ứng hành thì đáng gọi là “thượng công”, thượng công thì mười trường hợp có thể thành công đến chín, người nào có thể ứng hành được hai thì được gọi là “trung công”, trung công thì mười trường hợp có thể thành công đến bảy, người nào chỉ ứng hành được một thì gọi là “hạ công”, hạ công thì mười trường hợp chỉ thành công có sáu .

 

 

 

Hoàng đế nói: “Ta xin được hỏi về bệnh hình của các mạch hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc, như thế nào ?” .

Kỳ Bá đáp : “Thần xin nói về bệnh biến thuộc ngũ tạng” .

 

 

Tâm mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết tùng, khi vi cấp gây thành chứng Tâm thống, dẫn ra đến sau lưng, ăn không xuống .

Tâm mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng cười như điên, khi vi hoãn gây thành chứng Phục lương, ở dưới Tâm, chạy lên chạy xuống, thường hay bị thổ huyết .

Tâm mạch, khi đại thậm gây thành chứng như có vật gì cứng chận ngang trong cổ họng, khi vi đại gây thành chứng Tâm tý, dẫn ra đến sau lưng, dễ chảy nước mắt .

Tâm mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn.

Tâm mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng Tâm sán, dẫn xuống đến rún, vùng tiểu phúc kêu .

Tâm mạch, khi sắc thậm gây thành chứng cảm, khi vi sắc gây thành chứng huyết tràn, chứng duy quyết, tai kêu và điên tật .

 

 

Phế mạch, khi cấp gây thành chứng điên tật, khi vi cấp gây thành chứng Phế hàn nhiệt, lười biếng, uể oải, ho, ói ra máu, dẫn đến vùng thắt lưng, lưng và ngực, trong mũi có mọc cục thịt làm cho mũi không thông .

Phế mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng ra nhiều mồ hôi, khi vi hoãn gây thành chứng nuy lũ, thiên phong, từ đầu trở xuống mồ hôi ra không dứt .

Phế mạch, khi đại thậm gây thành chứng sưng thủng từ gót chân đến gối, khi vi đại gây thành chứng Phế tý dẫn đến vùng ngực và lưng, khi thức dậy sợ mặt trời .

Phế mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng tiêu chảy, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn .

Phế mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng tức bôn, thướng khí, khi vi hoạt gây thành chứng ra máu mũi miệng ở trên và ra máu ở tiểu và đại tiện .

Phế mạch, khi sắc thậm gây thành chứng ói ra máu, khi vi sắc gây thành chứng thử lũ ở khoảng cổ và dưới nách, đó là vì hạ khí không thắng được thượng khí, đưa đến kết quả là chân và gối bị mềm yếu vậy .

 

 

Can mạch, khi cấp thậm gây thành chứng nói xàm bậy bạ, khi vi cấp gây thành chứng phì khí, ở dưới sườn như cái ly úp xuống .

Can mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi hoãn gây thành chứng thủy hà và tý ,

Can mạch, khi đại thậm gây thành chứng nội ung, dễ ói, chảy máu mũi, tai; khi vi đại gây thành chứng Can tý, chứng teo bộ sinh dục, khi ho sẽ đau dẫn đến tiểu phúc .

Can mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn.

Can mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi sán, khi vi hoạt gây thành chứng đái dầm .

Can mạch, khi sắc thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi sắc gây thành chứng khiết luyến, cân tý .

 

 

Tỳ mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết túng, khi vi cấp gây thành chứng cách trung, ăn uống vào bị ói trở ra, hậu môn tiêu ra phân có bọt .

Tỳ mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng nuy quyết, khi vi hoãn gây thành chứng phong nuy, tứ chi yếu, không co duỗi được, trong lúc đó Tâm lại bình thường như không có bệnh .

Tỳ mạch, khi đại thậm gây thành chứng bệnh như bị đánh sắp té xuống, khi vi đại gây thành chứng sán khí, bụng như ôm một cái gì to lớn, đó là mủ và máu ở bên ngoài Trường và Vị .

Tỳ mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng hàn nhiệt, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn.

Tỳ mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi lung, khi vi hoạt gây thành chứng có trùng độc, loại hồi hạt, bụng bị nóng .

Tỳ mạch, khi sắc thậm gây thành chứng Trường đồi, khi vi sắc gây thành chứng nội đồi, đi tiểu ra nhiều mủ máu .

 

 

Thận mạch, khi cấp thậm gây thành chứng cốt điên tật, khi vi cấp gây thành chứng trầm quyết, chứng bôn đồn, chân không co duỗi được, không tiểu tiện và đại tiện được .

Thận mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng đau muốn gãy lưng, khi vi hoãn gây thành chứng động, chứng động làm cho ăn không tiêu hóa, ăn xuống liền bị ói trở ra.

Thận mạch, khi đại thậm gây thành chứng âm nuy, khi vi đại gây thành chứng thạch thủy, khởi lên từ rún xuống đến tiểu phúc, có vẻ nặng nề, bên trên lên đến Vị hoãn, chết, không trị được .

Thận mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng động tiết, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn.

Thận mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng lung đồi, khi vi hoạt gây thành chứng cốt nuy, ngồi xuống không đứng lên được, đứng lên thì mắt sẽ không thấy gì cả .

Thận mạch, khi sắc thậm gây thành chứng đại ung, khi vi sắc gây thành chứng không có kinh nguyệt và chứng nội trĩ trầm trọng .

 

 

 

 

Hoàng đế hỏi: “Lục biến của bệnh, phải châm như thế nào ?” .

Kỳ Bá đáp : “Các mạch cấp thì nhiều hàn, các mạch hoãn thì nhiều nhiệt, các mạch đại thì nhiều khí, ít huyết, các mạch tiểu thì huyết và khí đều ít, các mạch hoạt thì Dương khí thịnh, hơi có nhiệt, các mạch sắc thì nhiều huyết, ít khí, hơi có hàn [87]. Cho nên, khi châm các mạch cấp phải châm sâu vào trong và lưu kim thật lâu. Khi châm các mạch hoãn, phải châm cạn vào trong và rút kim ra thật nhanh, nhằm giải bớt nhiệt. Khi châm các mạch đại phải châm tả khí thật nhẹ, đừng cho xuất huyết . Khi châm các mạch hoạt phải châm bằng cách rút kim ra thật nhanh mà châm vào thì phải cạn,

nhằm tả bớt Dương khí, giải bớt nhiệt khí[91]. Khi châm các mạch Sắc, phải châm cho đúng với mạch, phải tùy theo lẽ ‘nghịch và thuận’ mà lưu kim lâu  . Trước hết phải án huyệt, xoa, khi đã rút kim ra thì phải mau mau án ngay vào vết châm, nhằm mục đích làm cho huyết không xuất ra được, và cũng để làm cho mạch được hòa. Khi gặp các mạch tiểu, đó là trường hợp mà Âm Dương, hình khí đều bất túc, đừng chọn huyệt để châm mà chỉ nên điều hòa khí huyết bằng cam dược”.

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Ta nghe khí của ngũ tạng, lục phủ, chỗ nhập của huyệt Huỳnh và huyệt Du gọi là huyệt Hợp, vậy nó nhập theo con đường nào ?, nhập vào như thế nào để có sự liên hệ tương thông với nhau ?, Ta mong được nghe nguyên nhân đó”.

Kỳ Bá đáp : “Đây là trường hợp Dương mạch biệt nhập vào bên trong thuộc về phủ” .

Hoàng đế hỏi: “Huyệt Huỳnh, huyệt Du và huyệt Hợp, mỗi huyệt có định danh hay không ?” .

Kỳ Bá đáp : “Huyệt Vinh và huyệt Du trị ngoại kinh, huyệt Hợp trị nội phủ”.

Hoàng đế hỏi: “Trị nội phủ phải như thế nào ?” .

Kỳ Bá đáp : “Phải thủ huyệt Hợp” .

Hoàng đế hỏi: “Huyệt Hợp của Vị nhập vào huyệt Tam lý, huyệt Hợp của Đại trường nhập vào huyệt Cự hư Thượng liêm, huyệt Hợp của Tiểu trường nhập vào huyệt Cự hư hạ liêm, huyệt Hợp của Tam tiêu nhập vào huyệt Ủy Dương, huyệt Hợp của Bàng quang nhập vào huyệt Ủy trung ương, huyệt Hợp của Đởm nhập vào huyệt Dương Lăng tuyền” Phải thủ huyệt như thế nào?”  .

Kỳ Bá đáp : “Thủ huyệt Tam lý phải buông thấp bàn chân xuống, thủ huyệt Cự hư phải đưa chân lên, thủ huyệt Ủy dương phải co và duỗi chân, thủ huyệt Ủy trung phải co (gối) lại, thủ huyệt Dương lăng tuyền phải ngồi ngay thẳng, co gối, buông thẳng chân, kéo xuống bên mép ngoài huyệt Ủy dương. Thủ các huyệt ngoại kinh, phải duỗi ra, đưa tay chân ra một cách thoải  mái để thủ huyệt rồi theo đó mà trị liệu”.

 

 

 

Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về bệnh của lục phủ” .

Kỳ Bá đáp : “Gương mặt nhiệt, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh [104]. Chứng sung huyết nơi ngư lạc, đó là bệnh của kinh Thủ Dương minh . Trên mu của 2 bàn chân mạch kiên mà hãm, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh. Đây là những chứng thuộc Vị mạch vậy .

Bệnh của Đại trường làm cho trong ruột đau quặn thắt và đồng thời sôi lên ồ ồ [108]. Nếu gặp mùa đông, bị trúng cảm bởi hàn khí thì sẽ bị chứng tiêu chảy, đau ngay ở phần rún, không thể đứng lâu được, cùng 1 chứng hậu với Vị, nên thủ huyệt Cự Hư Thượng Liêm để chữa trị .

Bệnh của Vị làm cho bụng trướng to lên, Vị hoãn sẽ đau thấu tới Tâm, chói lên trên vào 2 hông sườn, từ cách lên đến yết hầu không thông, ăn uống không xuống, nên thủ huyệt Tam lý để chữa trị .

Bệnh của Tiểu trường làm cho tiểu phúc đau, cột sống ở thắt lưng khống chế đến 2 hòn dái cũng bị đau nhức, lắm khi đau đến nỗi phải nghiêng ra phía sau mới chịu nổi, có khi trước tai bị nhiệt, có khi như thể là lạnh nhiều, hoặc như thể là mí mắt trên bị nhiệt nhiều, cho đến trong khoảng giữa ngón út và ngón áp út cũng bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, đó là những chứng bệnh hậu(của tiểu trường) vậy . Bệnh của kinh Thủ Thái dương nên thủ huyệt Cự Hư Hạ Liêm .

Bệnh của Tam tiêu làm cho phúc khí bị đầy, tiểu phúc cứng hơn, không tiểu tiện được khiến cho người bệnh bị quẫn bách, khi nước nhiều quá, sẽ lưu giữ lại một chỗ làm thành chứng trướng .

Chứng hậu ở tại đại lạc bên ngoài kinh Túc Thái dương, đại lạc ở khoảng giữa kinh Thái dương và Thiếu dương, cũng hiện ra ở mạch, nên thủ huyệt Ủy Dương để trị .

Bệnh của Bàng quang là làm cho tiểu phúc bị sưng thủng mà đau, dùng tay để ấn lên tức thì làm cho bệnh nhân muốn đi tiểu mà không tiểu được, trên mi mắt bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, cho đến ngoài ngón chân út lên đến sau mắt cá và cẳng chân đều bị nhiệt. Nếu mạch bị hãm nên thủ huyệt Ủy Trung Ương để trị .

Bệnh của Đởm làm cho (bệnh nhân) dễ bị thở mạnh, miệng đắng, ói ra chất nhờn, dưới Tâm đập mạnh, hay lo sợ là có người sắp bắt lấy mình, trong cổ họng như có vật gì chận ngang và thường hay khạc nhổ (nước bọt). Ở huyệt gốc và ngọn của kinh Túc Thiếu dương, cũng có thấy được mạch bị hãm xuống, (trường hợp này) thích hợp với phép cứu . Khi nào bị hàn nhiệt thì thủ huyệt Dương Lăng Tuyền”.

 

 

 

Hoàng Đế hỏi: “Phép châm này có phải theo một đường lối nào không ?” .

Kỳ Bá đáp: “Châm theo phép này ắt phải châm đúng khí huyệt, đừng châm trúng nhục tiết . Nếu châm trúng khí huyệt thì mũi kim sẽ như đang đi chơi nơi con đường hẻm rộng, còn nếu châm trúng nhục tiết sẽ làm cho phần bì phu bị đau . Phép bổ tả mà áp dụng nghịch nhau thì bệnh sẽ càng nặng . Nếu châm trúng cân (gân) sẽ làm cho cân bị hoãn (lơi lỏng), tà khí không xuất ra được, do đó nó sẽ đánh nhau với chân khí tạo thành cuộc hỗn loạn và không chịu ra đi, quay ngược vào trong để rồi lớn dần ra . Người dụng châm nếu không thẩm sát cho kỹ, đó là họ đã biến thuận thành

nghịch rồi vậy” .

Theo : LK 4

Partager cet article
Repost0
27 mai 2010 4 27 /05 /mai /2010 10:56

Món tôm rim tỏi ớt      

 
Trời thu se lạnh được thưởng thức món tôm rang cay  thơm mùi tỏi với cơm nóng thì thật tuyệt.

Nguyên liệu:

 

Tôm tươi 500 gr
Ớt xanh, ớt đỏ 2 quả
Tỏi 1 củ
Bột bấp
Rượu trắng
Muối tiêu

 

 

tomrimtoiot.jpg
 
Cách làm:
 
   
Tôm rửa sạch rồi để ráo. Ớt cắt dọc, bỏ hột , nếu bạn không ăn được cay thì có thể dùng ớt ngọt, ớt chuông. Thái nhỏ ớt và băm tỏi rồi trộn với nhau.
Lấy 1 cái chén cho tôm vào, rót 2 muỗng rượu, rắc 1 muỗng bột bấp, trộn đều lên.
      
  
Đặt chảo lên bếp, đun nóng 1 ít dầu ăn, cho tỏi và ớt vào phi thơm, rang cho tỏi chín vàng thì đổ ra chén.
Đặt chảo trở lại bếp, cho 2 muỗng dầu ăn, cho tôm vào rán đến khi tôm chín đỏ, thời gian rán khoảng 3 phút. 
     
    
Gắp tôm ra, đổ bớt dầu ra khỏi chảo. Sau đó cho tôm trở lại, rắc muối tiêu, cho chỗ tỏi ớt đã phi vàng lúc đầu vào cùng, đảo đều.   Đảo thêm khoảng 3phút nữa rồi đổ ra dĩa.

 


Tôm chín đỏ au, ngấm gia vị đậm đà
 

Tỏi và ớt phi thơm, khô, giòn quyện với tôm chín mềm thơm phức .

 

 

 

Gỏi sứa nấm kim châm    

   
Khẩu phần 4 người. Mức độ Rất dễ
Thời gian chuẩn bị 15 phút

Thời gian chế biến 5 phút 


 

Nguyên liệu:

- 200g sứa

- 50g nấm kim châm

- 1 quả ớt sừng

- 1/4 củ cà rốt

- 1 ít lá tía tô

Bánh phồng tôm, đậu phộng rang ăn kèm

Nước trộn: 2 muỗng súp nước mắm + 1 muỗng súp nước cốt chanh + 2 muỗngsúp đường + 1 muỗng cà phê tỏi ớt băm, khuấy đều

 

goisua.jpg

 

Cách làm

 

- Sứa ngâm nước muối khoảng 8-12 tiếng, rửa sạch

- Nấm kim châm rửa sạch, tách sợi, để ráo

- Ớt sừng, cà rốt, lá tía tô thái sợi

- Cho các nguyên liệu vào thố, rưới nước trộn vào, trộn đều

- Cho gỏi ra dĩa , rắc thêm ít đậu phộng rang giã hơi giập lên, ăn kèm với bánh phồng tôm

 

 

   

 

 

 

Củ sen xào tôm       

Nguyên liệu:
300g tôm sú
300g củ sen
 

2 củ hành tím

1 muỗng cà phê hạt nêm, ½ muỗng cà phê tiêu xay, 1 muỗng súp dầu ăn, hành lá

 

cusentom.jpg
 

Thực hiện:

Tôm bóc nõn, bỏ chỉ đen, ướp với đầu hành băm và ½ muỗng cà phê hạt nêm Củ sen gọt vỏ, xắt miếng mỏng, ngâm nước cho sạch nhựa, vớt ra để ráo.Hành củ bóc vỏ băm nhuyễn 1 củ còn 1 củ cắt lát mỏng.
Bắc chảo, cho dầu vào phi thơm hành tím băm, cho tôm vào xào, tiếp tục cho củ sen để lửa lớn, đảo nhanh tay, nêm hạt , xào khoảng 5 phút, nhấc xuống, cho hành tím bào và hành lá vào, trộn đều.
Trút ra dĩa , rắc đều. Trang trí với ít ngò rí.
Mách nhỏ: Củ sen muốn trắng nên ngâm trong nước có vài giọt chanh. Món này không nên xào quá chín, củ sen phải còn độ giòn sần sật mới ngon.

 

 

 

 

 

Tôm tẩm gia vị nướng       

Tôm nướng rất nhanh, bí quyết là phần nước gia vị bạn pha vừa miệng.

Nguyên liệu (Cho mỗi 1kg tôm tươi)
- 4 củ hành khô
- 1 miếng gừng nhỏ khoảng 20g
- 4 tép tỏi
- 120ml maggi (nước tương)
- 20g đường
- 60ml dầu mè
- 1/2 muỗng cà phê tiêu xay
- 1kg tôm tươi

 

  tom4.jpg

 

 

Cách làm: 

 

Tất cả các nguyên vật liệu (trừ tôm) cho vào máy xay sinh tố xay nhuyễn. Hoặc có thể bằm nhỏ hành khô, gừng, tỏi và trộn lẫn với các đường, maggi, dầu mè , hạt tiêu.
 

Tôm rửa sạch, thấm khô. 

 

Đổ nước gia vị đã pha vào ướp tôm khoảng 30′. Trộn đều cho từng con tôm đều ngấm gia vị.  

Đặt tôm lên khay có rãnh của lò nướng, phía dưới lót khay phẳng.
Vặn lò 300 độ C, nướng đến khi tôm chín, vỏ vàng đều.

Partager cet article
Repost0
9 mai 2010 7 09 /05 /mai /2010 14:33

Thành Bắc- Kinh,  hiền thần giữ nước .
 

Ðời nhà Minh từ lúc bị Lý Tự Thành soán nước của vua Thái Tổ,  Thuận Trị Hoàng Ðế đem binh qua mà đánh lấy nước lại cải hiệu là Ðại Thanh , đóng đô tại Bắc Kinh ,  dùng người Mông Cổ cai quản việc quân , đi đánh dẹp từ Bắc chí Nam ,  tóm thâu thiên hạ ,  soán ngôi cai trị có chín mười năm dư ,  truyền đặng bốn đời vua ,  truyền đến vua Càn Long lên ngôi ,  vua này rất nên thông minh , việc văn đã hay ,  nghề võ lại giỏi ,  hiểu biết thiên văn , thông hay địa lý , những sách chư tử bá gia đều thạo.

 

 

Thủa ấy thiên hạ ở yên ,  người người vui nghiệp làm ăn ,  tám phương đến cống , muôn nước tới chầu ,  ngựa thả về núi Nam Sơn , đồ binh khí dẹp vào kho ,  tu luyện việc văn rất nên có phước,  tọa hưởng thanh bình .
Ngày nọ vua Càn Long lâm trào,  lúc canh năm đồng hồ điểm ba ,  bên tả giọng trống Long Phụng ,  bên hữu đánh chuông Kiển Dương ,  quan Nội Thị Thái Giám đàn hầu ra trước , cung phi mỹ nữ hầu sau ,  văn quan võ bá chầu hai bên,  vua ngự Kim Loan Ðiện ngồi trên Long Sàng,  kế đến  quần liêu lớn nhỏ đồng tung hô triều bái , xong rồi , vua truyền chiếu chỉ rằng : " Từ khi trẫm thừa nghiệp Thánh Tổ Thần Thông mà nối ngôi báu này ,  dưới nhờ sức chư khanh,  trên nhờ trời ủng hộ , gió thuận mưa hòa ,  nước mạnh dân an ,  hưởng nghiệp thái bình ,  muôn dân hưởng phước ,  lúc rảnh rang trẫm có ngụ một câu đối,  nếu chư khanh ai đối được sẽ trọng thưởng ." 

Khi ấy các quan đại thần đều tâu :  " Xin Bệ hạ ngự phê cho chúng tôi biết ."  

 

 

Vua liền dạy Nội thị đem văn phỏng tứ bửu và giấy kim tương rồi phê câu ấy như vầy :


        " Thượng Ðế lúc hành binh,  trống sấm,  cờ mây,  đao gíó, tên mưa, trời bố trận."


 Lúc ấy các quan coi rồi đứng trân trân nhìn nhau,  không ai đối đặng.  

Vua thấy tình hình bá quan văn võ như vậy thì lấy làm buồn,  không đẹp ý,  giây phút có một vị đại thần,  làm chức Văn Huê Ðiện Học Sĩ  là Trần Hoằng Mưu bước ra vừa muốn tâu ;  vua liền hỏi :   " Khanh đối đặng được chăng? "  

Trần Hoằng Mưu tâu : " Tôi đã già cả,  tài lực siển lậu,  đối sao cho đặng,  nhưng mà có một người ở phủ Quảng Châu,  huyện Phan Ngang,  tên Thành Tu,  tài cao học rộng,  chắc đối câu ấy được , xin Bệ hạ cho đòi người ấy đến.   Vua hỏi : " Người ấy bây giờ ở đâu? "  

Trần Hoằng Mưu tâu : " Ở tại nhà tôi. "  

 

 

Vua bèn sai Huỳnh Môn Quan đến đòi Phùng Thanh Tu.  

Khi ấy Huỳnh Môn Quan lãnh chỉ đến phủ Trần Hoằng Mưu,  mở ra đọc ,  thì Phùng Thành Tu liền lạy tạ xong rồi theo Huỳnh Môn Quan đến Ngọ Môn thẳng vào chầu vua,  quì lạy mọp dưới bệ vàng,  chúc dâng muôn tuổi.  

Vua phán hỏi :  " Trẫm nghe nhà ngươi tài cao học rộng,  thấy cao xa,  nên đòi nhà ngươi đến mà đối cho xứng câu đối của trẫm thì trẫm sẽ trọng thưởng. "
Phùng Thành Tu tâu rằng :  " Tôi bậc Tiến Sĩ, học ít,  tài thưa,  nay Trần Lão Sư tiến cử,  e đối không xứng,  một là mang nhục,  hai là bị tội với triều đình,  vậy xin Bệ hạ thứ tội cho tôi coi thử câu đối ấy. "  

Vua bèn lấy câu đối đưa cho Nội thị giao lại cho Phùng Thành Tu xem sơ qua,  coi bộ không lo tính chút nào,   liền cất viết biên đối rồi trao cho quan Ðiện Tiền dâng cho vua xem.  

Vua thấy chữ viết như phượng múa,  rồng bay,  chữ hay vô gía,  đối chỉnh vô cùng.  

Câu đối như vầy :


        " Long Vương đêm đãi yến,  đèn sao,  đuốc nguyệt,  gỏi non,  rượu biển,  đất làm mâm."


Thiên Tử xem rồi liền vỗ tay cả cười,  khen đối rằng : " Thật là khanh tài học che khắp Trung hoa ,  rất khá mừng."  rồi ngó chăm chăm Phùng Thành Tu ,  thấy mày xanh rất lịch , mắt tốt thêm xinh , áng trang tài mạo , mở miệng thành thơ ,  rất nên bặt thiệp ,  bèn ban thưởng tại Kim Ðiện ba ly Ngự tửu và vàng bạc lụa là rồi cho người đưa về phủ Trần Hoằng Mưu ,  chờ ngày hội thi rồi sẽ ban thưởng nữa . 

 

Khi ấy Phùng Thành Tu rất nên đắc chí và mừng rỡ,  cúi đầu lạy tạ ơn vua ,  rồi trở về Trần phủ . 

Khi ban thưởng Phùng Thành Tu rồi ,  vua phán hỏi các quan đại thần rằng :  " Nay trẫm muốn xuống Giang Nam chơi một phen , có khanh nào theo bảo giá đặng chăng? "  

Vua hỏi đã ba lần,  các quan không ai tâu lại;  Thiên tử nổi giận liền nói : " Quả nhơn không cần bọn ngươi bảo giá,  quả nhơn đi một mình cũng chẳng hại gì."   

 

 

Bèn dạy lui chầu,  vua vào đền Nhân Hòa liền ngự bút tả một đạo chỉ cho quan Thái giám là Vinh Lộc mà dạy rằng : " Ta qua Giang-Nam chơi , xem phong cảnh có lâu thì mười năm , bằng mau cũng chừng năm năm sẽ trở về ,  vậy rạng ngày mai khanh hãy giao chiếu này cho quan Ðai Học Sĩ  là Trần Hoằng Mưu và Lưu Dung  ."  

Dặn rồi liền giả dạng thương khách tuốt ra cửa sau Tế Môn mà lên đường .
Qua ngày sau,  lúc canh năm ,  các quan hội chầu ,  thì quan Thái Giám  Vinh Lộc liền giao chiếu chỉ của vua cho quan Ðại Học Sĩ  Trần Hoằng Mưu và Lưu Dung ,  hai ông này bèn giở chiếu chỉ ra xem ,  thấy dặn như vầy :
" Nay ta lìa đất Yên-Kinh ,  dạo chơi Giang Nam,  như trễ thì trong mườị năm , mau chừng năm năm thì ta sẽ về , giang san việc lớn này giao cho Trần Hoằng Mưu hiệp cùng Lưu Dung cũng như trẫm vậy ,  chớ khá nghịch chỉ ,  kính thay ,  kính thay. "

Các quan nghe đọc chiếu chỉ xong rồi chẳng vui , ai nấy đều lui về phủ của mình .

 

 

Partager cet article
Repost0
9 février 2010 2 09 /02 /février /2010 13:54

Trục chỉ kim thương ký túc
Trường hoành đại chiếu tả phi bằng
Bổng bàn thượng cao đề hạ sát
Quyển nội trung bình tấn bộ khai
Khúc thủ xuyên côn đề lộng vĩ
Quyển hồi kê trác tấn quá giang
Bái trụ lộng thương hoàn điếu bộ
Tự bả tỳ bà ngạc kiếm lai
Thương long bãi vĩ thư phù phóng
Đào tẩu siêu khê điếu bộ hồi
Phục hổ biên lang đơn đã cán
Tấn,thích nghịch lân thối nhị lang
Phong quyển tàn vân toạ sát túc
Đơn hồi lạc mã ,tấn điếu ngư
Hoành tả yển xà đơn trích thuỷ
Quyển đả trung lang toạ hồi mai phục
Hoành đã hoả xa hồi phạt mộc
Yểm tả hoành hưũ đã trung lang
Phạt mộc yểm hoành trung lang hữu
Tấn khai hổ khẩu đả trung bình
Luân hồi phục qua kim thương thủ
Đơn tấn thiết ngưu thượng phi bằng
Hạ sát tầm xà siêu yên tả
Phụng đầu ngọc chuẩn,
hồi sào phũ đã ngư
Lập như tiền



Dịch Nghĩa

Ký chân dũi thẳng kim thương
Chiếu chỉ dóc ngang thế bằng bay phía trái
Mâm bưng lên xem xét phía dưới cao thấp
Cuốn vào trong mở bộ tấn trung bình
Co tay rút roi , thế đề lộng vĩ
Cuốn về thế kê trác (gà mổ thóc ) tiến qua song
Vững trụ thế lộng thương trở lại bộ câu cá
Ôm đàn tỳ bà lòi kiếm nhọn
Rồng xanh buông xuôi đuôi, phóng bùa phép
Trốn chạy vượt suối trở về bộ câu cá
Cọp núp bụi cỏ thể đơn đả cán
Tiến đâm thế nghịch lân , lùi thế nhị lang
Gió cuốn mây dồn tọa khít chân
Từ thế đơn hồi lạc mã , tiến thế câu cá
Hoành bên trái thế ém rắn, rồi thế đơn trích thuỷ
Đánh cuốn thế trung , toạ thế hồi mai phục
Hoành dập lửa thế xe về đốn cây
Ém bên trái hoành bên phải , đánh thế trung lang
Thế đốn cây , ém hoành thế trung lang phía phải
Tiến thế khai hổ khẩu (mở miệng cọp ) đánh thế trung bình
Núp về bụi dưa , giữ ngọn kim thương
Một tiến thế chim băng bay, thế con trâu sắt
Xuống bộ thế tìm rắn , vượt khói phía trái
Từ thế phụng đầu ngọc chuẩn
trở về thế sào phũ đả ngư (ông đánh cá)
Đứng như trước

(Võ Ta, Miền Tây Nam Bộ)

Partager cet article
Repost0